Sáng sớm, muôn vàn vạt nắng màu cam xuyên qua tầng mây, tỏa ánh sáng mơ màng.
Tiếng vó ngựa bất ngờ xé tan không gian tĩnh lặng, dồn dập vang lên trên con đường lớn phủ tuyết trắng xóa.
Cộp cộp cộp…
Một kỵ sĩ từ xa lại gần, trên lưng ngựa cắm cờ biểu trưng cho việc quân khẩn cấp, đảm bảo cả chặng đường không gặp lại trở ngại.
“Mở cổng! Mau mở cổng thành! Đông Lâm rút quân rồi! Đông Lâm rút quân rồi!”
Sứ giả truyền tin ngẩng đầu hét lên với cánh cổng thành vẫn đang đóng chặt. Dù sức cùng lực kiệt nhưng hắn vẫn không ngăn nổi niềm hân hoan.
Thị vệ trên thành nghi ngờ lắng tai nghe, ngó đầu nhòm xuống hỏi: “Huynh đệ vừa nói gì?”.
“Mau mở cổng thành, ta còn về bẩm báo với Thừa tướng. Đông Lâm rút quân rồi!”
“Đông Lâm rút quân rồi! Đông Lâm rút quân rồi! Đại chiến đã kết thúc!”
Cánh cổng thành dày và nặng từ từ mở ra cùng những tiếng kêu cót két, tin Đông Lâm rút quân như mọc thêm cánh, bay lên bầu trời Vân Thường, lướt qua từng trái tim đang phấp phỏng không yên, nhanh chóng truyền đến thành đô Vân Thường.
“Thừa tướng, Thừa tướng! Đông Lâm rút quân rồi!”
Tuy đã chuẩn bị tâm lý từ trước, nhưng lão thần Quý Thường Thanh cũng phải ngồi bật dậy khỏi giường: “Rút thật rồi sao?”.
“Rút rồi, Công chúa điện hạ đích thân ra chiến trường đàm phán với Sở Bắc Tiệp, sau đó đại quân Đông Lâm rút luôn.” Người truyền tin quỳ xuống, bẩm báo rõ ràng dứt khoát, “Quân ta đã cử rất nhiều mật thám theo dõi chặt chẽ động tĩnh của đại quân Đông Lâm. Quân địch không hề có hành động gì khác thường, rút thật rồi”.
Quý Thường Thanh vừa vội vàng sai người hầu hạ thay áo, vừa hỏi: “Công chúa và Phò mã thế nào?”.
“Công chúa và Phò mã đang trên đường dẫn quân về thành đô.”
“Phải đón tiếp long trọng.” Quý Thường Thanh hớn hở quay lại, chỉ một cận vệ, “Đi, mời các quan tư lễ[1] đến đây ngay lập tức. Tất cả các quan phụ trách mua bán, lễ nghi, nhạc trống đều gọi hết đến đây cho ta. Khoan đã…”. Thừa tướng suy nghĩ giây lát, lại dặn dò, “Trận chiến Đông Lâm – Vân Thường lần này vẫn có những con dân Vân Thường tử trận, đi mời Việt Lão phụ trách quân vụ đến đây, chúng ta bàn chuyện an ủi gia đình họ”.
[1] Quan tư lễ là quan coi sóc việc lễ nghi.
Thị vệ gật đầu liên tiếp, ghi nhớ rõ ràng, quay người định đi.
Đùng đùng đùng! Mấy tiếng nổ lớn đột nhiên vang lên, mạnh đến nỗi bụi trên trần nhà rơi xuống lả tả. Tất cả mọi người trong phòng sợ hãi, sắc mặt Quý Thường Thanh đổi hẳn: “Thành đô xảy ra chuyện gì? Mau đi điều tra!”.
Chẳng mấy chốc, thị vệ được cử đi xem xét tình hình chạy về bẩm báo: “Bẩm Thừa tướng, tin Đông Lâm rút quân đã truyền đến thành đô, khiến mọi người choàng tỉnh, ca hát uống rượu khắp trên phố. Nơi nơi đốt pháo, tiệm pháo lớn nhất thành đã đem bảo bối trấn tiệm ra đốt, mấy tiếng động khủng khiếp vừa rồi chính là do họ gây ra. Thừa tướng, có cần bắt họ lại không?”.
Quý Thường Thanh nghe ra, lắc đầu cười nói: “Bắt làm gì? Nhà ai mà không có người tòng quân? Đại chiến kết thúc, dân chúng vui mừng, chúng ta cũng không còn lo lắng”. Thừa tướng hạ lệnh, “Người đâu, lấy một ngàn lạng bạc trong phủ của ta đi mua rượu, đặt ở quảng trường trước vương cung để dân chúng uống cho thỏa thích”.
Thị vệ đáp: “Thừa tướng, rượu đầy trong kho của vương cung, cần gì phải mang bạc đi mua rượu của dân”.
“Chỗ rượu đó phải đợi Công chúa và Phò mã hồi cung mới được mang ra dùng. Bao nhiêu tướng sĩ như vậy, một việc trọng đại thế này, ta còn lo số rượu trữ trong cung chẳng đủ dùng.” Nghĩ đến cuộc đại chiến sẽ khiến quốc lực kiệt quệ đã được hóa giải, trong lòng Quý Thường Thanh vô cùng sảng khoái.
Vân Thường luôn đi theo quốc sách dưỡng sức tránh chiến tranh, công của Quý Thường Thanh thực sự không hề nhỏ.
Chẳng bao lâu sau, thị vệ đi lo việc lúc trước đã quay lại, bẩm báo: “Bẩm, các quan đã có mặt đông đủ, đang đợi Thừa tướng ở đại sảnh”.
“Được.” Quý Thường Thanh sửa lại quan phục, bước ra khỏi cửa phòng.
Ông ta đi dọc con đường nhỏ trong phủ thừa tướng, vòng qua hậu viên, tiến thẳng đến tiền sảnh. Trong lòng rộn rã, bước chân nặng nề cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Đến bên hồ nước đang kết băng, Thừa tướng lại nghe thấy điệu dài giọng quen thuộc của người truyền tin: “Báo! Việc quân cấp báo! Báo!”. Giọng nói từ xa vọng lại, một người chạy như bay về phía Thừa tướng.
Quý Thường Thanh chợt giật mình.
Đông Lâm đã rút quân, tiền tuyến còn việc gì cấp báo?
Không lẽ lại có biến?
“Các ngươi lui ra.” Quý Thường Thanh xua tay cho đám người hầu lui ra.
Quay đầu lại, sứ giả truyền tin đã đến trước mặt ông ta.
“Báo! Việc quân cấp báo!”
Quý Thường Thanh dừng bước trên bậc thang của cây cầu nhỏ, hạ giọng: “Có phải đã phát hiện ra đại quân Đông Lâm vờ rút không?”.
Sứ giả truyền tin từ trên lưng ngựa xuống, thở hổn hển, lắc đầu đáp: “Bẩm, không phải, bỉ chức không đến từ tiền tuyến”.
“Hử?” Trong lòng Thừa tướng đỡ lo hơn, “Có việc quân gì?”.
“Bẩm Thừa tướng, những cửa khẩu tiếp giáp với Bắc Mạc gần đây liên tục bị khiêu chiến.”
Quý Thường Thanh ngạc nhiên: “Có chuyện này sao? Khiên chiến ở những cửa khẩu nào? Đối phương có bao nhiêu người? Có phải quân Bắc Mạc không?”.
“Các cửa khẩu Thống Lâm, Hách Mông, Tiêu Dương, Doãn Liêu đều bị khiêu chiến. Đối phương không phải quân Bắc Mạc. Người đó từ trong Vân Thường ta tới.”
Quý Thường Thanh kinh ngạc: “Người đó?”.
“Vâng.” Vẻ mặt sứ giả truyền tin vẫn không khỏi kinh ngạc, “Đơn thương độc mã, liên tiếp khiêu chiến bốn cửa khẩu của Vân Thường. Kẻ khiêu chiến xuất hiện bất ngờ, kiếm pháp sắc bén. Vì đại chiến với Đông Lâm, phần lớn tướng sĩ tinh nhuệ ở các cửa khẩu đã theo Phò mã rút hết ra tiền tuyến, các thị vệ còn lại về cơ bản không dám giao chiến với người này”.
Quý Thường Thanh suy nghĩ giây lát, lại hỏi: “Xương tướng quân trấn giữ một phương, chẳng lẽ lại không nghe, không biết việc này?”.
“Thuộc hạ tâm phúc của Xương tướng quân cũng theo Phò mã ra trận. Vừa nghe đến việc này, Xương tướng quân đã lập tức cử người còn lại đi vây quét. Nhưng kẻ này vô cùng lợi hại, đi không thấy hình, đến chẳng thấy bóng, còn tinh thông việc truy kích ngược, chỉ chọn các cửa khẩu ít người, ung dung tự tại. Đến khi đại quân dàn trận thì đã biến mất tăm. Xương tướng quân cũng chẳng biết làm sao, đành lệnh cho các cửa khẩu tạm thời đóng chặt, không cho kẻ đó đi qua.”
“Đã khiêu chiến đến bốn cửa khẩu, xem ra người này không phải muốn đi qua Bắc Mạc.”
“Không phải, mỗi lần đến, người đó đều bắt đội trưởng canh giữ ở đó, để truy hỏi tung tích một nữ tử. Hắn giơ bức tranh gấm vẽ hình một nữ tử, rồi hỏi người nơi cửa khẩu đã gặp nữ tử này chưa, có biết hướng đi của nàng ta hay không? Kẻ ấy dũng mãnh phi thường, người thường đứng trước mặt hắn, chỉ cần bị hắn nhìn qua cũng đủ kinh hồn bạt vía.”
Nghe tới đây, Quý Thường Thanh đã đoán được vài phần, cười nói: “Các ngươi biết người này là ai không?”.
Sứ giả truyền tin ngạc nhiên: “Mỗi lần xuất hiện, người này đều đội mũ rộng vành, mang khăn che mặt, người ngoài nhìn vào chỉ thấy một đôi mắt. Không lẽ Thừa tướng đã biết là ai?”.
Khóe miệng Quý Thường Thanh nhếch lên một nụ cười. Ông ta chắp tay sau lưng, ngẩng lên nhìn bầu trời dần sáng, thở dài cảm kích: “Còn có thể là ai ngoài Sở Bắc Tiệp?”.
Tin Đông Lâm rút quân vừa về thành đô, Sở Bắc Tiệp đã tìm tới bốn cửa khẩu, thần tốc đến mức khiến người ta kinh sợ. Chắc chắn sau khi hạ lệnh rút quân, Sở Bắc Tiệp đã một mình khởi hành tới đó.
Có thể thấy, Sở Bắc Tiệp lo lắng đến chừng nào.
“Đông Lâm Trấn Bắc vương?” Sứ giả truyền tin vô cùng ngạc nhiên, mở to đôi mắt, hồi lâu mới sực tỉnh, gật đầu, “Chẳng trách người đó lợi hại như thế. Ngay đêm nay, bỉ chức sẽ rời khỏi thành đô, về báo tin này với Xương tướng quân”.
Việc quân vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia, có thể đảm nhận việc truyền tin đều là những người trung thành và nhạy bén, lanh lợi hơn binh sĩ thông thường khác. Có chút chần chừ, sứ giả truyền tin lại nói: “Bỉ chức bạo gan xin dâng lời này, Đông Lâm Trấn Bắc vương xâm phạm Vân Thường ta, kẻ địch lớn của Vân Thường. Nay Trấn Bắc vương đơn thương độc mã xuất hiện ở biên giới Vân Thường, đây chính là cơ hội tuyệt diệu để trừ bỏ người này”.
Sao Quý Thường Thanh lại không nghĩ đến việc này? Đông Lâm Trấn Bắc vương là mối đại họa của giới quyền quý ba nước còn lại, ai không muốn diệt trừ?
Sở Bắc Tiệp đơn thương độc mã xuất hiện ở biên giới Vân Thường, chẳng khác nào món điểm tâm đẹp đẽ nóng hổi bày ra trước mắt những người đang đói cồn cào. Lão tướng Quý Thường Thanh phải khổ sở đè nén mới bỏ được ý nghĩ ngay lập tức điều quân bao vây Sở Bắc Tiệp.
Vả lại, Sở Bắc Tiệp có thể dễ dàng để người ta vây bắt thế sao?
Băng tuyết phủ khắp sơn mạch Tùng Sâm, huy động đại quân đi vây bắt một mãnh tướng tinh thông ẩn giấu tung tích là một việc gian nan không thể tưởng tượng.
Một người như Sở Bắc Tiệp, nếu không thể một lần vây bắt thì thật khó có được cơ hội thứ hai.
Huống hồ…
“Dù có thể điều động đại quân, giết được Sở Bắc Tiệp thì sẽ thế nào?”, Quý Thường Thanh lắc đầu ảo não, không thể không từ bỏ ý niệm vô cùng mê hoặc này, “Chẳng may tin này lọt ra ngoài, đại quân Đông Lâm đang rút về sẽ quay lại tàn sát, và họ sẽ quyết tâm chiến đấu đến một binh một tốt cuối cùng”.
Cục diện yên bình mà khó khăn lắm họ mới giành được sẽ bị hủy diệt trong phút chốc.
Đây là kết cục Quý Thường Thanh không bao giờ muốn nhìn thấy.
Đã nghe đến uy danh của Sở Bắc Tiệp từ lâu, biết Quý Thường Thanh nói hoàn toàn có lý, sứ giả truyền tin không dám nhiều lời, quỳ xuống: “Đêm nay, bỉ chức sẽ rời thành đô, xin hỏi Thừa tướng có điều gì chỉ dạy?”.
“Chuyển lời đến Xương tướng quân. Có hai việc, thứ nhất, không được cử quân vây giết Sở Bắc Tiệp, tướng này dũng mãnh gan dạ, không giết được đâu, mà sẽ làm tổn thương đến quân sĩ Vân Thường ta. Hơn nữa, chiến sự vừa kết thúc, không nên chọc giận chủ soái đối phương. Còn về cửa khẩu, Sở Bắc Tiệp chỉ đến tìm người, chẳng làm bị thương đến ai, không cần thiết phải chống cự. Thứ hai…”, Quý Thường Thanh ngừng lời, ánh mắt sáng lấp lánh, trầm giọng: “Thông báo cho tất cả các cửa khẩu, dù phải dùng đến cách gì, quyết không để Sở Bắc Tiệp gặp được nữ nhân ấy”.
“Rõ.”
“Nhớ thật kỹ điều thứ hai ta vừa nói.”
“Rõ, bỉ chức ghi nhớ.”
Quý Thường Thanh không vội cho sứ giả lui mà thong thả nhìn xung quanh. Mặt hồ rộng lớn, sau lưng là cây cầu nhỏ phủ trắng những tuyết, không ai có thể lại gần họ mà không bị phát hiện. Quý Thường Thanh hỏi: “Ngươi có quen thuộc sơn mạch Tùng Sâm?”.
“Bỉ chức đóng quân tại sơn mạch Tùng Sâm, vô cùng quen thuộc địa hình nơi đây.”
“Ngươi tên gì, có chức vụ gì trong quân?”
“Bẩm Thừa tướng, bỉ chức Phiên Lộc, là đội phó trong quân.”
“Giờ ta phong ngươi thành Kiêu tướng hiệu úy.”
“Dạ?” Phiên Lộc ngạc nhiên ngẩng đầu, nhìn biểu cảm hoàn toàn nghiêm túc trên khuôn mặt Quý Thường Thanh mới biết Thừa tướng không hề nói đùa. Hai mắt hắn sáng hẳn lên, lời đáp sang sảng, “Tạ ơn Thừa tướng! Bỉ chức nhất định dốc hết sức lực để đền đáp công ơn của Thừa tướng”.
Quý Thường Thanh bước xuống, cúi người, hạ giọng: “Còn có điều thứ ba, điều nay cho mình ngươi nghe. Ra khỏi miệng ta, vào ngay tai ngươi”.
“Rõ.” Phiên Lộc nghiêm nghị đáp, dỏng tai chờ Quý Thường Thanh nói tiếp.
“Nữ nhân đó có thể đang ở quanh sơn mạch Tùng Sâm, quyết không được để nữ tử ấy và Sở Bắc Tiệp gặp nhau. Ngươi phải tìm thấy nữ tử đó trước Sở Bắc Tiệp.”
“Giết nàng ta?”
“Không”, Quý Thường Thanh khẽ đáp, “Đừng để trên người nữ tử ấy có dấu hiệu bị giết hại”.
Ánh mắt Phiên Lộc thoáng tia hung ác của một quân binh: “Nơi đó dã thú xuất hiện quanh năm, bỉ chức biết phải làm thế nào rồi”.
“Đã thấy tranh vẽ nàng ta chưa?”
“Chưa, chỉ những binh sĩ bị Sở Bắc Tiệp tra hỏi mới thấy. Nhưng cũng chẳng mấy nữ nhân qua lại sơn mạch Tùng Sâm vào lúc này.”
“Nhớ kỹ, người này luôn mang bên mình chiếc trâm nạm những viên dạ minh châu, đó là thứ trang sức duy nhất luôn ở bên cạnh nàng ta từ khi từ Đông Lâm sang Vân Thường.”
Túy Cúc quên mất mình đã chờ bao lâu trong đêm tối, từng phút từng giây trôi qua đều thấp thỏm, giày vò khiến người ta thấy bóng tối như đã kéo dài tận mấy vòng luân hồi.
Túy Cúc nắm chặt cổ tay Sính Đình, không chịu buông. Túy Cúc sợ rằng chỉ cần buông tay, mình sẽ lạc mất Sính Đình. Không khí cũng run rẩy theo nhịp thở của hai nàng.
Ông Trời ơi, xin ông phù hộ cho Sính Đình cô nương và hài tử trong bụng qua được cửa ải này. Thầm mong trong lòng, Túy Cúc bỗng cảm thấy má mình ướt ướt, nước mắt rơi xuống tự lúc nào.
“Gió bão khi nào mới chịu ngừng?”, Túy Cúc cố nói cho thật thoải mái, không có tiếng nấc nghẹn.
“Có lẽ rất nhanh”, Sính Đình dịu dàng đáp.
Sính Đình càng thản nhiên, trong lòng Túy Cúc càng rối loạn.
Im lặng một lúc, trong đêm lại vang lên tiếng Túy cúc.
“Túy Cúc rất hận Vương gia”, Túy Cúc nói khẽ.
“Túy Cúc?”
“Túy Cúc hận Vương gia”, Túy Cúc vẫn nghiến răng nghiến lợi.
Túy Cúc chỉ biết trách Sở Bắc Tiệp, chỉ có thể hận Sở Bắc Tiệp. Nam nhân bản lĩnh to bằng trời, sao lại để nữ nhân mình yêu thương nhất phải chịu khổ chốn đây?
“Đều là lỗi của Vương gia, đều là lỗi của Vương gia. Chẳng phải nam nhân cần bảo vệ nữ nhân của mình sao? Chẳng phải nam nhân cần giữ lấy nữ nhân mình yêu thương trong vòng tay để che chở sao?”
Túy Cúc càng nghĩ càng giận, càng nói càng bất bình.
Sính Đình thở dài, nắm bàn tay Túy cúc, giọng dỗ dành: “Túy Cúc, đừng nói nữa”.
“Đáng lẽ Vương gia phải ở đây, nếu Vương gia ở đây, bên cạnh cô nương thì tốt biết bao.”
Những lời không nên nói ra khỏi miệng, sự trầm mặc bất ngờ bao phủ không gian nhỏ hẹp. Túy Cúc bỗng nhận ra, mình sắp phát điên vì bóng tối và giông bão.
Sở Bắc Tiệp, giả dụ chàng ở đây, gió bão cũng có là gì? Bờ vai chàng rộng lớn, có thể che mưa chắn gió cho Sính Đình
“Cô nương…”, Túy Cúc hối hận, “Túy Cúc không nên nhắc đến người ấy”.
“Ngươi nói đúng”, Sính Đình buồn bã, “Nếu chàng ở đây thì tốt biết bao”.
Nếu thật là dù biển cạn đá mòn, chết cũng không thay đổi thì tốt biết bao!
Gió bão che khuất mặt trời, sơn mạch Tùng Sâm chìm trong sắc trắng, cuồng phong cuồn cuộn, va vào núi đá, phát ra tiếng kêu gào chói tai.
Sở Bắc Tiệp ngồi trên núi đá, vuốt ve thanh bảo kiếm trong tay.
Nửa đời hành quân đánh trận, trải qua nhiều điều còn đáng sợ gấp trăm lần trận gió tuyết này, chàng biết phải làm thế nào để tìm được nơi an toàn nhất mà náu mình vượt qua cơn gió bão.
Chẳng buồn để tâm đến gió bão, chàng lặng lẽ chờ nó qua đi. Chỉ cần bớt gió, chàng sẽ lại xuống núi, tiếp tục vào cửa khẩu Tiêu Dương thêm lần nữa.
Tiêu Dương là cửa khẩu phòng thủ mỏng nhất của Vân Thường. Nếu đi Bắc Mạc, rất có khả năng Sính Đình sẽ chọn nơi này. Cũng có thể hôm nay, Sính Đình sẽ đi qua Tiêu Dương.
Nhưng nhỡ chăng hôm nay chàng vẫn không thu được kết quả gì? Đáy mắt Sở Bắc Tiệp bỗng trở nên u ám.
Mấy ngày nay, chàng đã đến cả bốn cửa khẩu của Vân Thường song chẳng ai từng gặp mặt Sính Đình. Không lẽ Sính Đình không đi Bắc Mạc?
Điều khiến người ta lo lắng hơn cả chính là nàng ở lại Vân Thường. Dù Diệu Thiên công chúa chịu thả nàng đi, e rằng Hà Hiệp cũng chẳng cam tâm, truy binh hắn cử đi chỉ một, hai hôm nữa sẽ tới đây.
Tiếng sấm đinh tai nhức óc cùng những tia chớp màu máu như đang xuyên thẳng vào tim và xé nát cõi lòng Sở Bắc Tiệp. Tất cả như rơi xuống đêm đen vô tận, chỉ còn lại sự trống rỗng và một trái tim đau đớn, lo lắng đến tột cùng.
Sính Đình nàng đang ở đâu?
Núi non trùng điệp, cuồng phong bão tuyết, thân mang hài tử, nàng phải băng qua bao rừng núi gập ghềnh?
Ta chỉ muốn ôm nàng trong vòng tay, dùng thân thể mình để che bão tuyết cho nàng.
Nếu được như vậy, Sở Bắc Tiệp sẽ trở thành nam nhân hạnh phúc nhất trên đời, nam nhân được ông Trời ân sủng nhất.
“Nàng ở đâu? Nàng đang ở đâu?” Sở Bắc Tiệp nhìn chằm chằm vào chuôi kiếm, hoa văn trên đó khiến chàng nhớ tới chiếc trâm cài trên mái tóc nàng.
Giờ khắc này, chàng khao khát được cảm nhận hơi ấm của nàng, được nhìn thấy nụ cười ung dung nhàn nhã của nàng.
Tiếng gào thét của cơn cuồng phong dần yếu đi, trời không còn âm u như ban nãy, là dấu hiệu trận giông bão sắp qua.
Tinh thần phấn chấn hẳn lên, chàng đứng phắt dậy. Nếu hôm nay không tìm thấy tin tức của nàng ở Tiêu Dương, rất có khả năng Sính Đình đã tìm thấy một con đường khác để sang Bắc Mạc.
Chàng sẽ không do dự mà lao thẳng đến Bắc Mạc.
Dù phải đi khắp chân trời góc bể, Sở Bắc Tiệp cũng phải tìm lại được Bạch Sính Đình.
Cứ ngỡ không chịu được hết cơn bão tuyết, nhưng dường như những lời khẩn cầu của Túy Cúc linh nghiệm, tuy mạch của Sính Đình vẫn không ổn định, nhưng cũng chẳng có dấu hiệu xấu đi.
“Hình như bão tuyết sắp tan rồi.”
Trong đêm tối, vang lên giọng nói nhẹ tựa hơi thở của Sính Đình: “Thế sao?”. Tấm lưng vẫn luôn giữ thẳng của nàng bỗng chùng xuống, như người kiệt sức đang gắng gượng lần cuối cùng để đạt được mục đích.
“Cô nương!”, Túy Cúc kinh hãi kêu lên.
Sính Đình cố giữ vững thân người: “Không sao đâu”, giọng cũng yếu đi.
Túy Cúc đưa tay ra, đặt lên vầng trán ướt mồ hôi của nàng: “Có tức ngực không?”.
“Ừ”, Sính Đình đáp một tiếng.
“Gió bão sắp ngừng rồi.”
Sính Đình khẽ cựa mình, để hở lối ra vào. Lối vào không được tưới nước, nên không kết thành tảng băng dày. Y phục dùng để cố định nóc lều rũ xuống một góc, bên trên có ít băng vụn gió bão đưa tới. Sính Đình dùng sức giật một cái, phần y phục kết dính phát ra những tiếng kêu tách tách, giật thêm lần nữa, ánh sáng đã lọt vào gian lều nhỏ.
Tuy chỉ là chút ánh sáng, nhưng so với bóng tối ban nãy, đã hoàn toàn khác biệt.
Gió lạnh xuyên qua khe hở vào trong căn lều băng ấm áp khiến Túy Cúc và Sính Đình rùng mình. Tuy lạnh, nhưng tuyết sắp dừng. Gió tuyết điên cuồng quật gãy cành cây cũng dần yên tĩnh lại. Cuối cùng, họ mở toang lối ra, bò ra ngoài.
Gian lều băng bảo vệ họ qua kiếp nạn lóng lánh dưới ánh mặt trời, nhỏ đến mức khó có thể tưởng tượng rằng đã có hai nữ tử trốn trong đó tránh bão tuyết. Khí lạnh hân hoan xộc thẳng vào mũi, xen lẫn mùi vị tươi mới rất riêng của núi rừng. Cuối cùng bão tuyết đã tan, ánh sáng lại tràn về, cơ hội trốn chạy quay về bên họ, Túy Cúc hăng hái: “Cô nương, chúng ta tiếp tục lên đường thôi”.
“Ừ.”
“Để Túy Cúc bắt mạch lại đã, cô nương còn tức ngực không?”
Sính Đình lắc đầu: “Đỡ hơn rồi”.
Túy Cúc nhìn nàng, định nói gì lại thôi.
Sính Đình không nói sai, bão tuyết quật ngã thân cây, chẳng biết tay nải họ để quên giờ bị cuốn đến tận phương nào.
Không còn kim bạc, không còn cả thảo dược đã chuẩn bị sẵn.
Túy Cúc lo lắng: “Cô nương còn đi được không?”.
“Ừ.”
“Mong ông Trời tiếp tục phù hộ cho chúng ta tìm thấy ít thảo dược. Không còn kim bạc, thì có thể hái lá tùng dùng tạm”, Túy Cúc nói, “Cô nương ngồi đây, Túy Cúc đi tìm lá tùng, châm vài kim, cô nương sẽ bớt khó chịu”.