Sơn mạch Tùng Sâm là lá chắn thiên nhiên ngăn cách hai nước Bắc Mạc và Vân Thường.
Thôn trang nhỏ xíu ấy nằm dưới chân sơn mạch Tùng Sâm, luận về địa giới vẫn thuộc lãnh thổ Bắc Mạc, nhưng nơi hoang vắng này không có lợi ích quân sự, cách cửa khẩu cũng xa, người trong thôn chỉ lên núi hái thuốc, săn bắn, núi non hoang vắng, đâu quan tâm gì đến Vân Thường hay Bắc Mạc.
“Sơn mạch Tùng Sâm là của chúng ta”, A Hán vẫn thường cười ha ha mà rêu rao như vậy.
Xa xa, những dãy núi quanh năm tuyết phủ sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tựa như một tấm gương chói chang. Đã trồng xong vụ xuân, trên thảo nguyên bao la phía đông, cỏ non vươn mầm mạnh mẽ.
Mùa xuân đã đến, nơi nơi vang lên khúc hát mùa xuân.
“Đàn dê kêu vui quá.” Mới sáng sớm, A Hán đã vui vẻ xách sang con gà, lớn tiếng từ ngoài cổng, “Cô nương, gà nhà chúng ta béo rồi, ta mang một con sang cho hài nhi ăn”.
Dương Phượng từ trong phòng chạy ra, giơ ngón tay lên miệng, lắc đầu, nói: “A Hán, lần nào cũng quên. Hài nhi đang ngủ ngon, cẩn thận không lại bị đánh thức bây giờ”.
A Hán bỗng nhớ ra, ngượng ngùng gãi đầu: “Ha ha, sao ta hay quên thế chứ? Tiểu A Hán cũng thường bị ta làm cho giật mình”.
Dương Phượng nhận lấy con gà từ tay A Hán, cười nói: “Cô nương ra ngoài rồi, vào trong ngồi đã”.
“A ca đâu?”
“A ca và Ngụy Đình lên núi rồi, nói là đi săn thú rừng về đổi gạo và dầu.”
Tắc Doãn và mọi người sống ở đây, chỉ lo việc chăn thả săn bắn, rất ít qua lại với người khác. Có A Hán vì quen biết với Sính Đình nên thường xuyên qua lại.
Vốn tính tình phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết, cũng may A Hán không nhiều chuyện hỏi han lai lịch của họ bao giờ. Thấy Tắc Doãn lớn tuổi hơn, A Hán liền gọi là a ca, và Dương Phượng tất nhiên trở thành a tẩu.
“Ta không ngồi đâu, ta còn phải đi xem đàn ngựa.”
“Từ từ hãy đi.” Dương Phượng gọi A Hán lại, quay vào trong, chẳng mấy chốc cầm ra một túi giấy, “A Hán tẩu bị lở ở tay đúng không? Đây là thảo dược, mang về sắc cho tẩu ấy uống”.
Nói đến vết lở trên tay thê tử, A Hán lại đau lòng cau mày: “Thảo dược cũng vô dụng thôi, uống bao nhiêu loại rồi, vẫn u lên một cục, buổi tối đau nhức vô cùng”.
“Thảo dược này khác, nói cho ngươi biết, đây là thảo dược do cô nương hái đấy.”
A Hán trợn tròn mắt: “Cô nương biết thăm bệnh à?”.
“Muội ấy còn biết nhiều hơn thế. Nói tới khám bệnh, tuy không phải là thần y, nhưng cũng còn hơn Lâu đại phu của các ngươi nhiều.” Dương Phượng đặt túi thuốc vào tay A Hán, nhắc nhở, “A Hán tẩu khỏi bệnh, tự mình biết là được rồi, đừng có đi khắp nơi rêu rao”.
“Ta biết rồi. Cô nương không biết đã nói bao nhiêu lần rồi, không được nói với người khác! A tẩu, ta xin nhận chỗ thảo dược này, nếu hữu hiệu, ta sẽ mang thêm một con gà sang.” A Hán xách thảo dược đi, bỗng dưng quay lại, vỗ đầu kêu lên, “A tẩu xem ta cũng thật hồ đồ. Ta quên mất việc nữ nhân của ta dặn rồi”.
A Hán lấy trong người ra một túi đồ: “Ở đây có hai cái áo, đều do nữ nhân của ta khâu, tuy thô một chút, nhưng chất liệu rất bền, một chiếc cho Khánh nhi của a ca, một chiếc cho hài nhi của cô nương”.
Dương Phượng nhận lấy hai cái áo, cầm chiếc nhỏ ra xem trước, bật cười: “Cái này nhỏ rồi, vai của Trường Tiếu rộng lắm”.
“Bé xíu như thế, vai có thể rộng đến chừng nào chứ?”, A Hán có chút thất vọng, “Thử xem đã, biết đâu vẫn vừa”.
Dương Phượng dẫn A Hán vào trong phòng, đến bên nôi nhỏ, rồi ướm thử chiếc áo lên người hài nhi. Đúng là hơi chật một chút, Dương Phượng nói: “Ngươi xem, vai bị chật này. Nhưng không sao, lát nữa ta sẽ tháo ra, nối thêm một mảnh vải là được”.
Hài nhi đang nằm trong nôi, khuôn mặt non nớt, sống mũi thẳng. Thông thường các hài nhi nằm ngủ vẫn cựa quậy lung tung, nhưng Trường Tiếu nằm rất ngay ngắn, có quy tắc.
A Hán nhìn Trường Tiếu trong nôi, xuýt xoa: “Hài nhi này có khuôn mặt đẹp quá, lớn lên không biết có bao nhiêu nữ nhân chạy theo. Trường Tiếu ngày nào cũng cười, lúc nào cũng cười… Ha ha, cô nương đặt tên hay thật đấy.”
Thấy Trường Tiếu ngủ ngon, A Hán đưa ngón tay cọ cọ trêu nó. Trường Tiếu đang trong giấc ngủ, cảm thấy có người chạm vào, khó chịu ngúc ngoắc cổ, nhưng mắt vẫn nhắm tịt, cánh tay mũm mỉm quơ qua quơ lại, túm chặt lấy ngón tay A Hán.
“Ha ha, cũng có sức thật đấy”, A Hán vui vẻ cười vang, “Sau này chắc chắn sẽ là một nam tử đầu đội trời chân đạp đất”.
“Tất nhiên rồi” Dương Phượng mỉm cười, dịu dàng cúi nhìn hài nhi trong nôi.
Trường Tiếu, Sở Trường Tiếu.
Phụ thân của đứa trẻ này chính là Trấn Bắc Vương nổi danh thiên hạ.
Phong Âm vào ở trong phủ Phò mã, chiếm phòng của Sính Đình, đánh đàn của Sính Đình. Những người trong phủ Phò mã đều biết Phong Âm là người của Công chúa và Thừa tướng nên đâu dám đối đãi với nàng ta như một nô tỳ.
Ngay cả Hà Hiệp bình thường cũng dịu dàng nhã nhặn, chưa từng sai khiến nàng ta điều gì.
Nếu Diệu Thiên không giá lâm phủ Phò mã, Phong Âm chính là nữ chủ nhân nơi đây.
“Còn gì nữa không?”
“Còn có…”, Phong Âm cau mày suy nghĩ, “Hình như Phò mã thu nhận một người cùng đường, đến từ Quy Lạc”
“Đến từ Quy Lạc? Ai? Tên gì? Lai lịch thế nào?”
Phong Âm lắc đầu, nói: “Con loáng thoáng nghe họ nói qua một lần, chỉ biết người từ Quy Lạc đến, những thứ khác đều không rõ”.
Quý Thường Thanh nhìn Phong Âm vẻ thất vọng, thở dài: “Quyền thế Hà Hiệp càng lớn, ta càng cảm thấy bất an. Đáng tiếc, Công chúa không nghe theo lời khuyên của ta. Phong Âm, con phải dốc sức giúp nghĩa phụ đấy”.
Phong Âm gật đầu: “Nghĩa phụ yên tâm”.
“Hà Hiệp đối đãi với con như thế nào?”
“Hà Hiệp đối xử với con rất có lễ nghĩa, còn dặn người dưới hầu hạ con thật chu đáo.”
“Hắn có thích nghe con đàn không?”
“Phò mã chưa từng sai con đàn.”
“Sau khi trở về, ngày nào con cũng đàn cho ta. Tài đàn của con rất tốt, đừng nên uổng phí.”
Phong Âm muốn nói gì lại thôi, bèn ngẩng lên nhìn trộm khuôn mặt sâu xa khó đoán của Quý Thường Thanh, cuối cùng vẫn hỏi một câu: “Tại sao phải như vậy? Mỗi lần con đàn trong phòng, hình như phò mã càng trở nên ít nói”.
Quý Thường Thanh hỏi: “Con có biết mình đang dùng đàn của ai không?”.
“Con biết, đàn này là của Bạch Sính Đình.”
Bạch Sính Đình, vẫn là Bạch Sính Đình.
Người đã đi rồi, sao cái tên vẫn ở lại?
Quý Thường Thanh lãnh đạm trả lời: “Đó là một cây kim trong tim Hà Hiệp . Con phải thường xuyên chạm vào nó, để hắn mãi mãi ghi nhớ, đây là Vân Thường, chủ nhân của Vân Thường là Công chúa. Công chúa muốn ai sống, người ấy được sống; muốn ai chết, kẻ đó phải biến mất. Đây chính là vương quyền.”
Dưới sự đồng ý của Diệu Thiên, kho tiền lương dành riêng cho việc quân của Vân Thường đã chính thức thành lập, thế lực của Hà Hiệp dần dần được mở rộng.
Đông Lâm vương ốm nặng mà băng hà, Vương hậu tuân theo di lệnh nhiếp chính. Quân Đông Lâm mất đi Trấn Bắc Vương như người mất xương sống, không còn khí phách như trước.
Ẩn mình bao lâu nay, Hà Hiệp tất sẽ không bỏ qua một cơ hội tốt thế này. Đúng mùa cỏ non ngựa béo, lại nhân lúc quân quyền, tiền lương sẵn trong tay, cuối cùng Hà Hiệp cũng thỉnh cầu Diệu Thiên cho xuất binh.
“Như thế… có ổn không?”, Diệu Thiên cau mày, bàn tay đang cầm trái cây lại đặt xuống, nhìn sang Hà Hiệp.
Khuôn mặt tuấn tú tươi cười, Hà Hiệp nhìn Diệu Thiên: “Công chúa cảm thấy chỗ nào không ổn?”
Chưa đợi Diệu Thiên trả lời, Quý Thường Thanh ở bên cạnh đã cười đáp: “Vân Thường ta vẫn luôn coi trọng quốc sách an cư một phương, tự cung tự cấp, không tranh giành với nước khác. Chăm lo được cho bách tính, quốc gia mới có thể hưng thịnh”
Nghe thế, Diệu Thiên lộ vẻ tán đồng.
Hà Hiệp trầm ngâm một lát, bỗng thoải mái cất lời: “Việc lớn như thế này cũng không thể vội vã ra quyết định ngay. Chi bằng trong buổi chầu ngày mai, triệu tập quần thần bàn bạc rồi hãy định đoạt, Công chúa thấy sao?”
Diệu Thiên đang lo lắng Quý Thường Thanh và Hà Hiệp sẽ xung đột trực diện nên vội vã gật đầu, rồi nhìn sang Quý Thường Thanh: “Thừa tướng cảm thấy thế nào?”
Ở trong triều, ông ta có rất nhiều quan văn ủng hộ, Vân Thường trước nay vẫn luôn trọng văn khinh võ, dựa vào đám võ tướng trong tay Hà Hiệp, nói thế nào cũng không đấu lại được với thế lực của Quý Thường Thanh. “Phò mã nói rất đúng, việc lớn thế này, cũng nên đưa ra trước buổi chầu để quần thần bàn bạc, đến lúc đó Công chúa hãy định đoạt.”
Việc chinh chiến tạm thời gác qua một bên, Hà Hiệp và Quý Thường Thanh cùng bàn chuyện quốc sự với Diệu Thiên thêm một lúc, rồi lần lượt cáo từ vì còn có quốc sự cần xử lý.
Diệu Thiên nhìn theo bóng hai người rời đi, lòng thầm thở phào. Trong triều, phe phái của Thừa tường và Phò mã ngấm ngầm đối chọi nhau, như mũi tên đã đặt sẵn trên dây cung, chỉ cần chạm khẽ sẽ bật ra ngay. Cùng là người một nhà, thật khiến người ta khó xử.
Yên lặng một lát, bỗng có tiếng bước chân, nghe rất quen thuộc.
Diệu Thiên ngẩng đầu, ngạc nhiên: “Sao Phò mã quay lại?”.
Hà Hiệp mỉm cười, đến bên Công chúa, ánh mắt nhìn về phía xa xa ngoài cửa sổ, nói: “Ta vốn định quay về phủ Phò mã, nhưng đi được nửa đường chợt nhớ ra một câu, nên quay lại gặp Công chúa”
Diệu Thiên ngạc nhiên hỏi lại: “Phò mã nhớ ra câu gì quan trọng?”
“Trong lòng ta, đó thực sự là một câu rất quan trọng” Khóe môi Hà Hiệp thoáng nét cười, ánh mắt như chìm vào ký ức xa xăm, nói bằng giọng vô cùng cảm thán, “Chỉ tiếc là có thể Công chúa đã quên mất rồi”.
Diệu Thiên bất giác lại gần, dịu dàng hỏi: “Phò mã không nói, Diệu Thiên sao biết được là câu gì?”.
Hà Hiệp im lặng hồi lâu, từ tốn đáp: “Trong đêm tân hôn, ta đã hứa với Công chúa, rồi sẽ có ngày, ta tự tay đội mũ phượng Hoàng hậu tứ quốc lên đầu nàng”.
Trong lòng run rẩy, Diệu Thiên thất thanh: “Phò mã…”.
“Lời nói như vẫn bên tai, sao giờ lại thành ra như thế?”, Hà Hiệp cười chua xót nhìn về phía Diệu Thiên, “Nhưng nếu Công chúa chỉ cần một phò mã canh giữ một phương, ta nhất định cũng sẽ không làm nàng thất vọng”.
“Phò mã…”
Ánh mắt sáng như sao, Hà Hiệp ung dung đáp: “Ta quay lại chỉ để nói câu này, Công chúa là chủ nhân của một nước, những việc lớn của Vân Thường vẫn phải để Công chúa định đoạt”. Nói xong, hắn cung kính hành lễ với Công chúa rồi ung dung bước đi.
Đêm đó, Quý Thường Thanh đã viết liền hai mươi bảy bức thư, giao đến phủ đệ của các quan trong triều khắp thành đô, chuẩn bị đòn liên hoàn phản đối việc Hà Hiệp tùy tiện xuất quân.
Ai ngờ trong buổi chầu sáng hôm sau, Diệu Thiên vừa giá đáo, ngồi vào vương vị, từ nơi cao nhất ấy tuyên bố vương lệnh: “Đông Lâm là kẻ địch lớn của nước ta, nay kẻ địch đã suy yếu, chúng ta phải thừa cơ tấn công, không cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi. Phò mã…”.
“Có”, Hà Hiệp cất giọng sang sảng, tiến lên một bước.
“Vì sự bình an sau này của Vân Thường, bản Công chúa lệnh cho Phò mã chinh phạt Đông Lâm. Bắt đầu từ hôm nay, giao hổ phù cho Phò mã thống soái bảy cánh quân của Vân Thường, trao cho Phò mã toàn quyền định đoạt”.
Vốn đã chuẩn bị sẵn một bụng lý do để phản đối chiến sự, không ngờ Diệu Thiên Công chúa vừa xuất hiện đã ban bố vương lệnh, các quan viên bỗng trở nên đờ đẫn, ngơ ngẩn nhìn Quý Thường Thanh.
Sắc mặt tái xanh, Quý Thường Thanh đang định đứng ra bẩm báo, lại nghe Công chúa lạnh lùng tiếp: “Ngày Đông Lâm Trấn Bắc vương dẫn quân xâm phạm Vân Thường ta cách đây chưa lâu, cầu an một phương chưa chắc có thể giữ được bình yên cho bách tính. Quần khanh chớ quên bài học của quá khứ”.
Lời nói chém đinh chặt sắt, tất cả những người có mặt đều hiểu sự quyết tâm của Diệu Thiên. Quý Thường Thanh bỗng thấy lạnh lòng, không thể tiến thêm một bước, đành nghiến răng nhìn Hà Hiệp lĩnh hổ phù, biết rằng việc đã được định đoạt, không thể cứu vãn.
Vừa tan buổi chầu, Hà Hiệp cùng đám võ tướng khao khát lập công liền hưng phấn rời khỏi đại điện. Đám quan văn quần tam tụ ngũ vây lấy Quý Thường Thanh, mặt mũi âu sầu.
“ Thừa tướng, việc này…”
“ Thừa tướng, xuất binh là việc lớn, phải cẩn trọng.”
“Thừa tướng có nên lập tức vào cung, gặp Công chúa điện hạ?”
Quý Thường Thanh lắc đầu, không nói lời nào, mặc kệ cả đám quan văn vây quanh, một mình lên xe ngựa. Trở về phủ thừa tướng, tiểu nhi tử Quý Viêm vội vã chạy ra cổng lớn, rồi theo phụ thân vào phòng, đóng cửa lại, hỏi: “Phụ thân, có thật là Công chúa điện hạ đã ban vương lệnh cho Phò mã dẫn quân chinh phạt Đông Lâm?”
Sắc mặt sa sầm, Quý Thường Thanh gật đầu, nhìn tiểu nhi tử: “ Hà Hiệp đã nhận hổ phù, có thể điều động tất thảy các đội quân của Vân Thường, bao gồm cả cánh quân Vĩnh Tiêu trong tay con và cánh quân Úy Bắc trong tay nhị thúc của con.”
Hai người im lặng, ngoài cửa vang lên tiếng bước chân rầm rập, rõ ràng là một người nóng vội.
Quý Thường Thanh nói: “Chắc chắn là nhị thúc của con đó.”
Chưa nói xong, cửa phòng đã bật mở, một dáng người cao lớn chắn ngay trước cửa. Quý Thường Ninh mặc trụ giáp, lên giọng hỏi: “Đại ca, nghe nói Công chúa điện hạ đã hạ lệnh cho Hà Hiệp dẫn quân chinh phạt Đông Lâm?”.
Quý Thường Thanh gật đầu, sắc mặt nặng nề.
Quý Thường Ninh lại phấn chấn, cười ha hả: “Thế là cũng được đánh Đông Lâm, thực sảng khoái. Đáng tiếc, đệ ra ngoài luyện binh vừa về đến thành đô, bỏ lỡ lúc Công chúa hạ vương lệnh.”
Nhà họ Quý đời đời là trọng thần của Vân Thường. Tính đến nay, Quý Thường Thanh là người chức cao vọng trọng nhất, theo sau là bao quan văn, nhưng quan võ chỉ có nhị đệ Quý Thường Ninh và tiểu nhi tử Quý Viêm. Biết tính cách của nhị đệ, Quý Thường Thanh quay sang lừ mắt, thở dài: “Đánh trận có gì hay? Hà Hiệp vốn đã oán hận nhà họ Quý chúng ta, ở trong triều còn có chút kiêng dè ta, nên không dám làm gì. Ta chỉ sợ có được hổ phù, đến lúc xuất chinh, hắn sẽ điều hai cánh quân của đệ và Quý Viêm ra tiền tuyến…”
“ Đệ chỉ sợ hắn không điều động đệ thôi. Bản tướng quân cũng đã xông pha nơi chiến trường giết giặc, sợ hắn chắc?”
Tuy là võ tướng, nhưng suy nghĩ có phần tường tận hơn nhị thúc, Quý Viêm trầm ngâm một lúc, nói: “Phụ thân sợ Hà Hiệp nắm đại quyền trong tay, nhị thúc ra tiền tuyến sẽ gặp rủi ro. Thế này đi, nếu Hà Hiệp có điều động quân Úy Bắc của nhị thúc ra tiền tuyến, hài nhi cũng sẽ xin điều động cánh quân Vĩnh Tiêu đi theo. Thúc điệt ta cùng là tướng lĩnh, lại nắm trong tay hai cánh quân, Hà Hiệp sẽ chẳng làm gì được chúng ta. Một cánh tay không đỡ nổi bốn nắm đấm, chẳng lẽ hắn dám điều động cánh quân khác bao vây chúng ta?”.
“Không được, thế quá nguy hiểm, ngộ nhỡ…”
Quý Thường Ninh ngáp một cái, xua tay: “Đại ca không phải lo. Đệ thấy nguy hiểm nhất là Hà Hiệp không chịu điều hai cánh quân của chúng ta. Hắn dẫn binh tiêu diệt Đông Lâm, khi trở về công lao một mình hắn hưởng, nhà họ Quý chúng ta phải đứng sang một bên.”
Vốn là người tùy tiện nhưng lời này của Quý Thường Ninh không phải là không có lý.
Quý Thường Thanh nhìn nhi tử, Quý Viêm khẽ gật đầu, rõ ràng cùng một nhận định với nhị thúc. Suy nghĩ hồi lâu, Quý Thường Thanh thở dài nói:”Nếu đã như vậy, chỉ có thể đi bước nào tính bước ấy. Nói thực là, Hà Hiệp dẫn quân xuất chinh, chúng ta không có đại tướng trong quân để thông báo tin tức cũng không được, có điều, nhị đệ…”, Quý Thường Thanh quay lại, nhìn Quý Thường Ninh, giọng nghiêm túc, “Đại ca nói trước một câu, lần xuất chinh này không giống trước kia, khi hành quân, đệ tuyệt đối không được…”
“Không được uống rượu.” Quý Thường Ninh cau hai hàng mày rậm, nghiến răng đáp, “Lần này xuất chinh, đệ sẽ không động đến một giọt rượu nào. Nếu không, đệ sẽ không còn là con cháu nhà họ Quý nữa!”
“Đệ phải nhớ rõ thật kĩ, đừng vì hứng chí nhất thời mà phạm phải tật cũ.”
Quý Thường Ninh vỗ ngực nói: “Đại ca yên tâm, việc nhỏ đệ có thể hồ đồ, nhưng việc lớn thì rất cẩn trọng.”
Quý Thường Thanh dặn dò nhị đệ xong, ánh mắt quay sang tiểu nhi tử. Quý Viêm đứng dậy, chắp tay vái cha một cái, chậm rãi thưa, “Phụ thân yên tâm, hài nhi sẽ cố không ra trận cùng nhị thúc, tránh Hà Hiệp tóm gọn một mẻ.”
Quý Thường Thanh luôn thương đứa con thông minh hoạt bát này của mình, nhưng hắn không chịu làm quan văn mà một mực muốn được dẫn binh. Ông ta dịu dàng nhìn con, thở dài: “Ra đến tiền tuyến, đừng cậy mạnh hiếu thắng, hơi một tí là xin ra trận.”
Văn quan và võ tướng không giống nhau. Các tướng lĩnh đều là những người từng qua binh đao khói lửa chiến trường, họ chỉ kính phục người có bản lĩnh mà không quan tâm tới gia thế tài lực. Đáng hận là võ công Hà Hiệp đều cao hơn người khác, nên chỉ trong thời gian ngắn hắn đã có được sự trung thành của đại bộ phận quân lính. Nếu không, với thế lực thâm căn cố đế của Quý gia ở Vân Thường, đâu cần phải lo lắng đến mức này?
Quý Thường Thanh buồn bã, đứng dậy mở cửa, gió thổi thốc vào mặt. Quý Thường Thanh gọi tên lính đang đứng cuối hàng lang đến, hỏi: “Công chúa có sai người đến triệu kiến ta không?”
Tên lính nhìn trộm chủ nhân một cái, cẩn trọng đáp: “Không có.”
Sắc mặt sa sầm, Quý Thường Thanh đứng đó một lúc, dặn dò: “Ngươi đi đi, nếu có tin từ vương cung, hãy báo ngay với ta.”
Chiến mã đã béo, trống trận sẵn sàng.
Hà Hiệp đã có binh quyền và hổ phù trong tay, cả tiền lương cũng được thoải mái chi dùng mà không chịu sự hạn chế của triều đình.
Công chúa, chẳng lẽ người định mang tương lai của Vân Thường ra để đánh cuộc một lần?
Có được hổ phù, ngày hôm sau Hà Hiệp lập tức điều động đại quân. Quân Đông Lâm tuy không còn Sở Bắc Tiệp, nhưng đại quân Đông Lâm do một tay Sở Bắc Tiệp dìu dắt vẫn thực sự đáng sợ. Hà Hiệp đã tỏ rõ khí phách muốn nhòm ngó thiên hạ, điều động toàn bộ cánh quân của Vân Thường. Cánh quân Úy Bắc của Quý Thường Ninh và Vĩnh Tiêu của Quý Viêm cũng nằm trong số đó.
Chọn được giờ tốt ngày lành, Diệu Thiên công chúa đích thân ra tận cổng thành tiễn biệt phò mã.
Dân chúng Vân Thường ào tới cổng thành nhìn Phò mã mặc giáp trụ màu bạc đứng trên thành lầu, chẳng khác nào một thiên tướng hạ phàm, khiến mọi người trầm trồ ngưỡng mộ.
“Phò mã của chúng ta thật uy phong!”
“Lần này Đông Lâm mới biết Vân Thường không dễ đùa. Họ không còn Trấn Bắc Vương, lại gặp phải phò mã của chúng ta, đảm bảo Đông Lâm sẽ bị xoay như chong chóng.”
“Đánh cho bọn chúng tan tác một trận, để khắp thiên hạ biết rằng Vân Thường ta đâu dễ bị bắt nạt!”
Dường như nỗi oán hận một năm trước bị đại quân Đông Lâm giận giữ xông đến chèn ép, không ngẩng đầu lên nổi, đến tận hôm nay mới được dịp bùng phát.
Ngay cả Diệu Thiên khăng khăng hạ lệnh xuất quân cũng không thể tưởng tượng được rằng dân chúng Vân Thường luôn sống trong yên bình lại ủng hộ việc này như vậy.
Diệu Thiên lấy rượu ngon mời Hà Hiệp, ánh mắt lướt qua đám người đông kín dưới thành lầu, nhẹ giọng: “Dân chúng đều biết Phò mã sẽ khải hoàn.”
Hà Hiệp cười hỏi: “ Thế còn Công chúa?”
Diệu Thiên nhìn Hà Hiệp: “Dù chiến sự thế nào, Phò mã cũng phải bình an trở về.”
Hà Hiệp nhìn Diệu Thiên, ánh mắt lấp lánh như sao sáng trong đêm đen, khiến người ta không dám nhìn vào. Hà Hiệp không trả lời, chỉ nhìn ái thê nở nụ cười tự tin, rồi quay người rút kiếm.
Xoẹt!
Bảo kiếm đã mài giũa bao lần được rút ra khỏi bao, sắc bén dưới vầng mặt trời. Ánh đao lóe sáng khiến đám người đang chăm chú ngẩng đầu nhìn bên dưới chói mắt. Trong mờ ảo, họ chỉ thấy hình bóng Hà Hiệp đứng giữa quầng sáng, ý chí bùng phát, không ai sánh kịp.
“Phò mã vạn tuế!” Sau hồi yên lặng, tiếng hét vang lên không biết từ nơi nào, trong chốc lát đã lan sang tất cả mọi người.
“Phò mã vạn tuế!Phò mã vạn tuế!”
“Phò mã vạn tuế!Phò mã vạn tuế!”
“Phò mã vạn tuế!”
…
Từ đội quân ngay hàng thẳng lối đến bách tính muôn hình muôn vẻ dưới thành lầu, ai cũng sục sôi nhiệt huyết thét gào.
Hà Hiệp cất tiếng cười vang, những đường nét tuấn tú càng thêm phần ngang ngạnh. Hắn tra kiếm vào vỏ, bước xuống thành lầu, nhảy lên lưng chiến mã, thúc ngựa chạy vài vòng trước ba quân, để tất cả đều được ngắm hình dáng hùng dũng của mình. Hắn bất chợt vung tay, mọi người im lặng.
Hà Hiệp đã không chỉ là một phò mã.
Hà Hiệp đã trở thành hy vọng lớn của Vân Thường, đại diện cho sức mạnh của vương quyền.
Ánh mắt Hà Hiệp chậm rãi quét qua đại quân sẽ theo mình chinh phạt thiên hạ, nở nụ cười vừa ý, thét lên: “ Xuất phát!”.
Một lời vừa dứt, mười vạn đại quân rầm rập lên đường.
Tiếng vó ngựa rền vang trên con đường bụi vàng mù mịt.
Diệu Thiên không rời mắt khỏi bóng dáng hiên ngang của Hà Hiệp đang dần xa, bỗng thấy lòng trống rỗng. Hai tay ôm ngực, nàng lặng người nhìn theo, cho đến khi bóng dáng ấy hoàn toàn biến mất.
Bỏ lại thành đô sau lưng, con đường đất vàng trải dài trước mặt, Hà Hiệp dẫn đầu toàn quân, phía sau là tiếng chân ngựa rầm rập. Đông Chước đuổi theo đến nơi, đi sát bên cạnh, hạ giọng bẩm báo: “Đã sắp xếp mọi thứ theo sự dặn dò của thiếu gia”.
Hà Hiệp không hề dừng ngựa, ánh mắt vẫn nhìn ra xa, khẽ gật đầu.
“Đông Chước, hãy cầm chắc thanh kiếm.” Hà Hiệp quay lại, nhìn đoàn quân khổng lồ phía sau, ánh mắt thoáng nét cười lạnh lẽo, “Lần này phải đổ máu thật rồi.”
Đông Chước cũng ngoái đầu lại theo, nhìn về hai lá cờ lớn với những chữ “Úy Bắc”, “Vĩnh Tiêu” phía sau, bàn tay cầm kiếm càng chặt hơn.
Đông Chước đã quen với thủ đoạn của thiếu gia, không ra tay thì thôi, đã ra tay tất sẽ là một đòn sấm sét, không chừa đường sống.
Đây mới là bản sắc của tiểu Kính An vương.