"Cộc cộc cộc, cộc cộc cộc,” tiếng gõ cửa dòn tan vang lên không ngớt, La Phi tỉnh giấc, anh bật dậy, dụi mắt, thấy bên ngoài cửa sổ trời đã tối. Có thể do vẫn còn ngái ngủ, nên anh mơ mơ màng màng, tinh thần rối loạn, không còn khái niệm thời gian.
Tiếng gõ cửa lại vang lên, kèm theo tiếng gọi của Mông Thiếu Huy: “Cảnh sát La Phi, cảnh sát La Phi?”
La Phi lấy hết sức lắc đầu, lúc này anh mới nhớ lại là mình ăn trưa xong do không cưỡng lại được cơn buồn ngủ, nên đã trở vào phòng lăn ra ngủ li bì. Xem đồng hồ, đã gần sáu giờ tối, giấc ngủ này quả thật không ngắn chút nào.
Mông Thiếu Huy vẫn gọi bên ngoài phòng, La Phi vừa đáp lời vừa mặc quần áo chỉnh tề, sau đó ra mở cửa.
“Xin lỗi.” –Mông Thiếu Huy đứng ngoài cửa tỏ vẻ ngại ngùng, “Quấy rầy giấc ngủ của anh rồi.”
“Không sao, cũng đã đến lúc phải dậy rồi.” La Phi xua tay ra hiệu không vấn đề gì, sau đó hỏi: “Thế nào, chắc em có vấn đề gì hả?”
“Vâng! Lúc ăn trưa anh bảo là buổi tối hòa thượng Đức Bình sẽ cúng tế, cầu siêu cho các nạn nhân của trận sóng thần sao? Em cũng muốn đến đó, cùng tưởng niệm với mọi người.”
“Ồ.” La Phi nhớ lại, đúng là buổi trưa tôi có nhắc đến chuyện này, nhưng mà rất tùy hứng thôi, chứ không để ở trong đầu, vì anh vốn không tin và cũng chẳng có hứng thú với những chuyện như thế này. Có điều, mẹ Mông Thiếu Huy cũng đã gặp nạn trong trận sóng thần, hơn nữa lần cầu siêu này có một mối liên hệ đặc biệt với mẹ cậu, vì thế Mông Thiếu Huy tỏ ra khá quan tâm, âu cũng là điều dễ hiểu.
“Thôi được, để tôi đi cùng em.” La Phi suy nghĩ một lát xong thì nhận lời. Vì trên đảo liên tiếp xảy ra hai vụ án, tình hình chưa rõ, lúc buổi trưa La Phi đã dành cho Mông Thiếu Huy sự quan tâm đặc biệt, anh khuyên Mông Thiếu Huy từ nay đừng ra ngoài một mình vào buổi tối. Giờ cậu ta chủ động đến tìm anh, vừa là sự nghe lời, vừa thể hiện lòng tin tưởng, La Phi ít nhiều cũng cảm thấy vui trong lòng.
Hai người họ ăn nhẹ xong thì bắt đầu đi, họ đi men theo con đường nhỏ dưới chân núi về hướng bắc. Màn đêm buông xuống trên đảo rất nhanh, lúc này trời đã tối hẳn, con đường núi càng trở nên tối đen và tĩnh mịch. Dọc đường đi khá thuận lợi, nhưng gần đến nơi thì trời tối quá nên phải mất rất nhiều thời gian mới tìm được con đường nhỏ ẩn trong lùm cây. Khó khăn lắm mới tìm thấy đường chính, sau một hồi luồn lách qua các lùm cây, cuối cùng thì miếu thờ cũng đã xuất hiện trược mặt họ.
“Hơn bảy giờ rồi.” La Phi xem đồng hồ, “Chỉ e là chúng ta đến hơi muộn.”
“Cứ vào đi đã.” phòng trước của miếu thờ cửa vẫn mở, Mông Thiếu Huy có vẻ hơi sốt ruột, chưa kịp hỏi đã lao ngay vào bên trong. La Phi thấy tình hình như vậy cũng theo sát phía sau.
Cửa thông vào nhà sau thì đã đóng kín, trong phòng thắp một cây đèn dầu tối lờ mờ. Tiểu hòa thượng Huệ Thông ngồi nghệt một mình dưới ngọn đèn dầu, tự nhiên trông thấy có hai vị khách không mời mà đến, cậu ta vội đứng dậy, tay phải xua xua, ngăn không cho họ đi tiếp, tay trái thì lấy ngón trỏ dựng đứng áp vào môi, ra hiệu không được nói.
La Phi hiểu ý, đến gần tiểu hòa thượng, hạ thấp giọng hỏi: “Thầy của em đâu?”
Huệ Thông lấy tay chỉ về phía nhà sau, trả lời một cách dè dặt: “Họ đang cúng tế. Các anh nói nhỏ một chút, kẻo kinh động đến các vong linh ở dưới mộ.”
“Họ?” La Phi chau mày vì thấy lạ, “Ngoài sư phụ em ra, còn có ai nữa?”
“Trưởng thôn Kim, có cả người khai động thạch nhũ Tang Quân Dũng nữa.”
“Hai người họ cũng đến à?” –tình huống bất ngờ này khiến La Phi không lường trước được, càng làm anh thêm vài phần hứng thú với lần cúng lễ cầu siêu này. Anh ngoảnh đầu nhìn Mông Thiếu Huy, Mông Thiếu Huy không suy nghĩ nhiều, bước tới nói với Huệ Thông: “Chúng tôi cũng đến để tham gia cúng tế, em vào nói với sư phụ em một câu đi.”
“Không được.” –tiểu hòa thượng xua tay liên tiếp, “Nơi cúng lễ cầu siêu cho các vong linh là nơi không được nói chuyện ồn ào, những người trên đảo đếu biết luật lệ này.”
“Thầy thường xuyên phải cúng tế, thế có việc gấp thì làm thế nào? Em với thầy phải có cách liên lạc nào đó chứ?” La Phi truy hỏi.
“Có lúc em dùng giấy bút để trao đổi, dù gì thì cũng không được nói chuyện tại nơi cúng tế, nếu không sẽ bị ma ám.” –tiểu hòa thượng mở to mắt, nói như đúng rồi.
Mông Thiếu Huy vẫn bám riết không thôi: “Thế thì em vào trong viết mẩu giấy nói với thầy đi, cũng không phiền lắm mà.”
“Không không không.” –tiểu hòa thượng biểu lộ nét mặt sợ sệt, “Em không đến chỗ đó đâu, nhất là vào lúc này.”
“Vậy phải tính sao? Em không thể để chúng tôi không tham gia được lễ cúng tế đúng không?” –La Phi thấy tiểu hòa thượng nhát gan bèn hù dọa, “Chúng tôi đều đã có hẹn với sư phụ của em rồi, chỉ có điều là đến muộn một chút thôi, em không cho chúng tôi vào, đến lúc đó sư phụ em chắc chắn sẽ không tha cho em đâu.”
Nếu vậy, tiểu hòa thượng đâm ra chần chừ, nhất là La Phi, ông ấy đã gặp hai lần, biết người này là cảnh sát, đến sư phụ còn nể, nếu chẳng may đắc tội với anh ta, thật không biết phải ăn nói thế nào.
Tiểu hòa thượng thảng thốt hỏi: “Có đúng là các anh đã có hẹn với thầy không?”
La Phi gật đầu, Mông Thiếu Huy có vẻ không quen nói dối, vẻ mặt có chút gượng gạo.
Tiểu hòa thượng phân vân đôi chút, cuối cùng cũng đã phải nhượng bộ: “Thôi được, các anh uống “tịnh tâm trà” vào đi đã, rồi tự mình đi, tôi thì chắc chắn là không đi rồi.”
‘“Tịnh tâm trà’? Đó là cái gì vậy?” La Phi và Mông Thiếu Huy bốn mắt nhìn nhau, đều không hiểu gì lắm.
“Ai đến chỗ làm lễ cũng đều phải uống ‘tịnh tâm trà’ trước đã. Nếu không cái tâm anh sẽ không thanh tịnh, rất dễ bị cô hồn oán quỷ nó mê hoặc, sư phụ và mọi người đều uống cả, các anh muốn vào đó, thì cũng nên uống trước đi.” tiểu hòa thượng vừa nói vừa lại gần chiếc bàn, sau đó nhấc lên một ấm trà, rót vào hai chiếc cốc trống.
Nếu đã là qui định, thì cũng không nên nói nhiều làm gì, vì thế họ lại gần, mỗi người cầm lấy một cốc trà. Bằng tiềm thức của mình, La Phi lấy tay trái tì vào mép bàn, cảm thấy tay ướt sũng, cúi đầu nhìn thì thấy chỗ mép bàn dính khá nhiều nước trà, dưới mặt đất cũng có vệt nước loang.
“Cái thằng bé này, làm việc vụng tay vụng chân, rót có hai cốc trà mà cũng vung vãi tung tóe.” La Phi trộm nghĩ, nhưng cũng không nói gì, tay cầm cốc trà đưa lên miệng.
Nước trà màu xanh nhạt, ngửi có mùi thơm nhẹ, nhưng nếm vào thì vị lại rất đắng. La Phi vốn không thích uống trà, thấy nước đã nguội, bèn dốc ngược một hơi xuống bụng, cũng chả kịp nhâm nhi hương vị ra làm sao.
Mông Thiếu Huy đúng cạnh cũng uống hết theo, sau đó nhìn về phía Huệ Thông: “Bây giờ thì chúng tôi vào được rồi chứ?”
“Để tôi viết cho hai người mẩu giấy, nói rõ tình huống với sư phụ.” –tiểu hòa thượng vừa nói vừa lấy giấy bút ra, viết một hồi xong, đưa cho La Phi cầm.
La Phi thoáng đọc dưới ánh đèn mờ, chỉ thấy trên đó ghi: Sư phụ, hai người này nói là đã có hẹn với thầy đến dự lễ cúng tế, cứ nằng nặc đòi vào. Con đã nói hết với họ những điều cần chú ý và cũng đã cho họ uống tịnh tâm trà rồi.
Tiểu hòa thượng chỉ tay về phía cánh cửa thông vào nhà sau: “Các anh tự mình mở cửa đi, vào trong đó đưa giấy này cho sư phụ.”
Cánh cửa bằng gỗ đã qua nhiều năm, trông bề ngoài thật cũ nát. Hai tay La Phi đỡ lấy vòng cửa, khẽ dùng sức, cùng với thứ âm thanh “cót két” lạ lùng cánh cửa gỗ từ từ mở ra hai bên, lộ ra một thế giới u ám đằng sau cánh cửa. Tiểu hòa thượng bất giác thu mình về phía sau, thần sắc kinh hãi, như thể có cái gì đó rất đáng sợ nhảy tót ra từ sau khe cửa.
La Phi và Mông Thiếu Huy đi vào nhà sau, tiện tay đóng cửa lại. Ánh đèn bị che khuất sau đó, toàn bộ nhà sau bị bao trùm trong bóng tối, cỗ quan tài đặt chính giữa lóe lên chút ánh sáng yếu ớt, không khí vô cùng ma mị.
Trên khoảng đất trống bên ngoài nhà, ba người họ đang ngồi bệt xuống đất mặt hướng về ngôi mộ vong linh rất to, tư thế trông rất trang nghiêm. Người ở giữa mặc áo choàng, đầu trọc, chính là hòa thượng Đức Bình, Kim Chấn Vũ và Tang Quân Dũng lần lượt ngồi hai bên. Nghe tiếng cánh cửa kêu, ba người đồng thời quay đầu lại, nhìn La Phi và Mông Thiếu Huy với ánh mắt kinh ngạc.
La Phi tuy không tin vào những chuyện ma quỷ, trong tình huống này, cũng không khỏi cảm thấy có chút gì đó kính nể và kìm nén. Anh bước nhẹ lại gần, trước tiên anh đưa cho Đức Bình mẩu giấy mà Huệ Thông viết.
Đức Bình đọc một lượt nội dung trên mẩu giấy dưới ánh trăng, sau đó ngẩng mắt nhìn La Phi và Mông Thiếu Huy. Bỗng ông chau mày lại, thần sắc trông rất chi là cổ quái, ngay sau đó, miệng ông giật giật, hai tay run lên lẩy bẩy. Tờ giấy cũng rơi khỏi tay ông, gió thổi phất phơ bay về phía ngôi mộ.
La Phi không hiểu tại sao, cũng không thể mở miệng hỏi, đương lúc thắc mắc, thì nhận thấy Kim Chấn Vũ đứng bên cạnh cũng có thay đổi, khuôn mặt co lại, hai tay đặt lên bụng dưới, trông vẻ rất chi là đau khổ.
Chứng kiến cảnh này, Tang Quân Dũng không chịu nổi, đứng phắt dậy, không còn để ý gì đến luật lệ cúng tế nữa, ồm ồm hỏi: “Mọi người làm sao thế?”
Đức Bình vùng vẫy đứng dậy: “Mau… mau đỡ chúng tôi ra ngoài…”
La Phi và mọi người không dám trì hoãn, đỡ Đức Bình và Kim Chấn Vũ cùng ra nhà ngoài. Huệ Thông đang đợi ở đó, trông thấy sự cố này, hoảng hốt hỏi: “Sư phụ… người, người bị làm sao thế?”
“Mau, mau đi gọi… bác sĩ Lý Đông đến đây!” –Đức Bình gần như lấy hết sức mới bật ra được câu này, những giọt mồ hôi to như hạt đậu lăn trên trán ông, Kim Chấn Vũ cũng đang cắn răng, tình trạng trông cũng không khá hơn ông là mấy.
Huệ Thông vội vàng đẩy cửa lao ra ngoài. La Phi lúc này đã định thần trở lại, trông triệu chứng hai người, phát hiện ra điều gì đó, anh nói: “Hai người đã bị trúng độc, có phải đã ăn phải cái gì không? Trước hết cần nôn ra những thứ còn sót lại trong dạ dày đã!”
Câu nói này đã nhắc nhở mọi người, Kim Chấn Vũ lập tức cho ngón tay vào miệng móc họng, chả mấy chốc đã thấy cổ ông ta vươn về phía trước, đồng thời miệng há to, nôn ra một đống. Đức Bình đứng bên cạnh cũng bắt chước làm theo, La Phi không nề hà bẩn thỉu và mùi hôi khó chịu, ngồi xổm xuống xoa đỡ lưng giúp ông nôn hết.
Đúng lúc này, Mông Thiếu Huy tự nhiên cũng ôm bụng vẻ mặt lo lắng: “Toi rồi, hình như mình cũng có cảm giác không ổn.” La Phi định hỏi thì bỗng nhiên có cảm giác nhói đau từ dạ dày, mồ hôi ra nhễ nhại, toàn thân mềm nhũn.
“Chúng tôi cũng… cũng bị trúng độc rồi!” to cao khỏe mạnh như Tang Quân Dũng mà lúc này mà cũng phải ôm bụng kêu đau.
La Phi cố nhịn đau, thúc giục mọi người: “Mau, mau nôn ra đi!” không đợi anh nói hết câu, Mông Thiếu Huy và Tang Quân Dũng đã lấy tay móc họng, chả mấy chốc mà căn phòng nhỏ toàn thấy tiếng nôn ọe không ngớt, năm người nôn ra cả đám.
--- ------ BỔ SUNG THÊM --- ------
Chương 18: Thoát chết
Hàng ngày ăn tối xong, Lý Đông đều ngồi tĩnh tâm nghiền ngẫm sách y học dưới ánh đèn, đây là thói quen anh rèn được ngày theo học thầy lang Tiết, thời gian đọc sách mỗi lần của anh thường kéo dài từ hai đến ba tiếng đồng hồ. Hôm nay đang đọc đến chỗ chăm chú thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa dồn dập, cùng lúc nghe thấy tiếng người gọi hoảng loạn: “Bác sĩ Lý Đông! Bác sĩ Lý Đông!”
Lý Đông chột dạ, biết là có người đang cần được cấp cứu, vội vàng ra mở cửa. Anh ngạc nhiên khi thấy người đứng ngoài cửa lại là tiểu hòa thượng Huệ Thông –người trông coi mộ vong linh cùng với Đức Bình.
“Bác sĩ Lý, anh mau đến đó đi! Sư phụ tôi và mọi người gặp chuyên rồi!” tiểu hòa thượng hoảng hốt kể lại sơ qua về tình hình xảy ra. Nếu là hai người xuất hiện cùng một triệu chứng tại cùng một thời điểm, Lý Đông nhận định khả năng là bị ngộ độc thực phẩm. Anh sắp xếp hộp thuốc, đem theo thuốc giải độc, cùng với Huệ Thông lao ngay đến hiện trường.
Theo lời kể của Huệ Thông thì chỉ có hòa thượng Đức Bình và Kim Chấn Vũ là có triệu chứng khác thường, nhưng khi Lý Đông có mặt tại căn phòng nhỏ, thì cảnh tượng diễn ra trước mặt khiến anh vô cùng ngạc nhiên: năm con người nằm có ngồi có, ngổn ngang xiêu vẹo dưới nền nhà, vùng vẫy một cách đau khổ, nôn ọe khắp nơi. Đức Bình và Kim Chấn Vũ bị nặng nhất thì mặt đã tái nhợt, hai mắt lim dim, đến kêu rên cùng không còn sức nữa.
Lý Đông thấy tình hình có vẻ nguy cấp, lập tức lại gần, lấy tay bắt mạch cho Đức Bình, đồng thời sốt ruột hỏi: “Các ông vừa ăn uống cái gì vậy?” giải độc quan trọng nhất là phải bắt đúng bệnh, vì thế việc trước tiên cần phải biết nguyên nhân dẫn đến ngộ độc.
Mặc dù cơ thể đang bị giày vò đau đớn, nhưng trong quá trình đợi người cứu viện đến, trong đầu La Phi đã có phán đoán sơ bộ về nguyên nhân bị ngộ độc, anh lấy tay chỉ vào ấm trà trên bàn, nhắc nhở Lý Đông: “Kia kìa… là cái ‘tịnh tâm trà’ đó!” Cơ thể Đức Bình lúc này đã rất yếu, nhưng nghe thấy La Phi nói vậy, ông cố gắng mở to mắt, đồng thời khẽ gật đầu, tỏ ý tán đồng.
Lý Đông vội đến bên cạnh bàn, lật tay dốc hết nước và bã trà lên mặt bàn. Sau đó anh chau mày, lật xem kĩ đống bã trà. Một lát sau, có vẻ như đã phát hiện được điều gì, mắt anh bừng sáng lên, phấn khích nói: “Phải rồi, phải rồi! Chính là nó!”
La Phi và Mông Thiếu Huy quay sang nhìn nhau, ánh mắt đều lóe lên niềm vui vì biết mình đã có cơ hội được cứu sống. Đức Bình và Kim Chấn Vũ hơi thở đã rất yếu, không còn sức để phản ứng. Duy chỉ có Tang Quân Dũng thì vừa rên xiết vừa đưa mắt nhìn Lý Đông vẻ thăm dò, không biết đang nghĩ điều gì.
Lúc này Lý Đông đã nhanh chóng mở hộp thuốc, lấy ra một bộ bơm tiêm và vài ống thuốc tiêm. Sau đó anh quỳ một đầu gối xuống đất, lần lượt tiêm thuốc giải độc cho Đức Bình, Kim Chấn Vũ, Mông Thiếu Huy, La Phi và Tang Quân Dũng. Xong anh cầm cây đèn dầu lên, rảo bước đi ra khỏi phòng.
Căn phòng nhỏ bỗng chốc tối đen, chỉ nghe thấy tiến kêu rên xiết và thở hổn hển lúc trầm lúc bổng của năm bệnh nhân. Huệ Thông thấp thỏm đứng bên cạnh, chân tay lóng ngóng.
Mũi tiêm giải độc đó quả là hiệu nghiệm, chả mấy chốc, La Phi đã cảm thấy bụng bớt đau, nhưng cơ thể vẫn còn mềm nhũn không có chút sức lực nào. Đợi thêm một lúc nữa, thì thấy ánh đèn dầu lóe sáng, Lý Đông trở lại từ những lùm cây.
Bước vào phòng một cái là Lý Đông đặt cây đèn lên bàn, lớn tiếng giục Huệ Thông: “Mau đi đun một ấm nước nóng, còn nữa, chuẩn bị mấy cái cốc sạch!”
Huệ Thông vâng lời, chân tay bắt đầu bận rộn. Lý Đông đem ít quả khô đang cầm chặt bên tay trái đặt dưới ánh đèn, nheo mắt lựa chọn thật tỉ mỉ. Tuy ngoài trời nhiệt độ về đêm giá lạnh, nhưng trên trán anh lại có một lớp giọt mồ hôi dày đặc, xen kẽ cả mấy vết bụi bẩn, xem ra anh đã phải rất vất vả lắm mới lấy được chỗ quả khô này.
Lúc này đang là mùa đông, lá cây đã rụng hết, chỉ còn lại những cành cây khẳng khiu và quả khô như hình quả đậu cong queo. Lý Đông đang tỉ mỉ bóc từng lớp vỏ, lấy ra những hạt như hạt đậu ở bên trong, để dồn trên mặt bàn cạnh cây đèn.
Khi Huệ Thông đun nước xong, công việc của Lý Đông cũng đã cho thấy thành quả: những hạt nhỏ gom lại đã đựng đầy một nắp cốc. Anh thở phào nhẹ nhõm, nhìn mấy người đang nằm trên nền nhà, ánh mắt lại thêm vài phần chắc chắn.
Ở đằng này Huệ Thông đã tìm được mấy cái cốc sạch, đặt trên mặt bàn. Lý Đông cầm một cái nắp cốc, dùng phần lưng nhẵn bóng nghiền nát chỗ hạt trần, sau đó đem bột nghiền chia thành năm phần bằng nhau, lần lượt cho vào năm cốc.
Làm xong những việc này, Lý Đông lấy ấm nước từ bếp lên, đổ nước đang sôi vào tráng cốc. Sau đó anh gọi Huệ Thông lại, đem năm cốc “trà nóng” chia cho năm người bị ngộ độc, năm người họ nhao nhao nhận lấy cốc trà của mình, mặc dù nước trà vẫn còn nóng, nhưng họ vẫn uống vèo cái hết.
Lúc này Lý Đông mới rảnh tay để đưa lên lau mồ hôi trên trán, sau đó anh xúc động nói: “Ổn rồi. Tính mạng của mấy người bây giờ mới coi là được bảo toàn.”
“Rốt cục là do nguyên nhân gì? Ghê thế cơ à?” La Phi vừa mới hồi phục được một chút đã lại bộc lộ thiên tính của một cảnh sát, anh biết câu trả lời đã nằm trong đầu Lý Đông từ lâu.
Lý Đông lại gần bàn bới lật đống bã chè, sau đó tay cầm đèn dầu trở về chỗ La Phi, xòe bàn tay trái ra dưới ánh đèn. Chỉ thấy giữa lòng bàn tay anh dính hai phiến chè, đều có hình elip nhọn đầu, rộng năm milimét, dài khoảng hai centimét, dưới ánh đèn mờ, thấp thoáng màu cà phê.
“Bên tay trái tôi là lá của loài cây thường gặp trên đảo, người dân nơi đây gọi là cỏ thơm đắng, thường được mọi người hái về cho lẫn với lá chè, khi pha trà lên có mùi thơm rất đặc biệt, lúc mới uống vào tuy có vị đắng, nhưng dư vị khó quên, nhiều người rất thích, tất nhiên, cũng có người rất ghét.”
Quả nhiên, Lý Đông giải thích tiếp: “Bên tay phải tôi là lá của loài cây hiếm gặp, thường chỉ sinh trưởng ở nơi ẩm thấp trong hang núi. Số người trên biết đến nó e rằng cũng không nhiều. Khi tôi còn theo học thầy lang Tiết, sư phụ đã từng giảng giải rất kĩ cho tôi về loài cây này. Tên thường gọi của nó là ‘Mỹ nhân nhãn’, thuộc loài cỏ linh lăng. Người bình thường rất dễ nhầm lẫn với cây cỏ thơm đắng.”
La Phi lại gần quan sát kĩ, nhận thấy giữa hai phiến lá này quả nhiên có sự khác biệt rất nhỏ. Ria mép của lá cỏ thơm đắng có hình răng cưa rất nhỏ, còn “Mỹ nhân nhãn” thì lại khá bằng phẳng, anh gật đầu ra vẻ có chính kiến riêng: “Vậy thì thủ phạm của chất độc là thằng ‘Mỹ nhân nhãn’ này rồi?”
“Nói thế cũng không hoàn toàn chính xác.” Lý Đông lắc đầu vẻ nước đôi, “Vì bản thân ‘Mỹ nhân nhãn’ vốn không có độc tố, nhưng ở nhiệt độ cao thành phần có trong lá của nó sẽ xảy ra phản ứng hóa học với chất amin có trong lá chè, tạo nên một chất kịch độc, đủ để gây chết người. Khi tôi còn đang học nghề, đã từng có người uống nhầm và bị trúng độc, khi ấy tôi đã học được ở thầy cách giải độc. Thuốc tiêm vào chỉ có tác dụng giảm đau và tăng cường khả năng sống sót, thảo dược mà sau đó tôi đi hái về mới thực sự có tác dụng giải độc, chính là cốc nước mà các anh vừa uống. Kể ra mạng các anh cũng lớn thật. Lọai độc tố này vô cùng lợi hại, nếu các anh không kịp thời nôn bớt chất độc ra, e rằng rất khó qua khỏi.”
La Phi trộm nghĩ, mình đúng là vừa mới trở về từ cõi chết, không khỏi có chút dư âm của sự sợ hãi: “Nói vậy, rất có thể là do người làm chè đã hái nhầm ‘Mỹ nhân nhãn’, suýt nữa đã gây nên đại họa.” thực ra trong đầu anh cũng đang đoán là có người cố tình đầu độc, nhưng do tình hình chưa rõ, nên mới không dám nói thẳng ra, đề phòng mọi người lo sợ đoán già đoán non.
Lý Đông cúi đầu, trong dầu dường như có dự tính nào đó, đoạn quay sang hỏi Đức Bình: “Trà này từ đâu mà ra?”
Đức Bình xem chừng là người bị trúng độc nặng nhất, lúc này người vẫn còn rất yếu, ông không trả lời ngay, chỉ đánh mắt sang phía Huệ Thông.
Tiểu hòa thượng rụt rè nói: “Cái này… cái này là do sáng sớm nay con mua ở chỗ bà Vương.”
Nói đến bà Vương, mọi người có mặt ở đó, trừ La Phi và Mông Thiếu Huy ra, ai cũng biết người này. Bà ta buôn bán một vài thứ tạp hóa nhỏ, trong đó có cỏ thơm đắng do bà ta tự hái để bán cho người dân trên đảo thích uống loại trà này.
“Nếu vậy thì, tôi phải đến chỗ bà Vương ngay, để xem số chè còn lại có vấn đề gì không” là một bác sĩ, Lý Đông rất có tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp đối với sức khỏe của người dân trên đảo. Trước khi đi, anh căn dặn mấy người sức khỏe chưa hoàn toàn bình phục: “Mấy bác tốt nhất nên tĩnh dưỡng một vài hôm, cố gắng uống thật nhiều nước. Phải rồi, cảnh sát La Phi, nếu anh tìm tôi có việc gì thì sau hai tiếng nữa đến nhà tôi.”
La Phi để ý lúc Lý Đông nói câu cuối cùng, ánh mắt đầy vẻ hàm ý, anh đã hiểu ý Lý Đông nhưng bề ngoài vẫn làm như không có chuyện gì. Lý Đông đi rồi, Huệ Thông dĩ nhiên lại bận quét dọn căn phòng bừa bộn. Năm người họ dần dần hồi phục, độ nửa tiếng sau, người trúng độc nặng nhất là Đức Bình cũng đã ngồi dậy được.
Sự việc vừa mới xảy ra kể cũng thật kì quặc, La Phi lúc này bắt đầu sắp xếp lại suy nghĩ, hầu như đã giải đáp được một vài điều bí mật trong đó.
“Sao hai người cũng đến tham dự lễ cầu siêu à?” trước tiên anh đặt câu hỏi cho Kim Chấn Vũ và Tang Quân Dũng.
“Tôi là trưởng thôn, gần đây những việc xảy ra trên đảo khiến tôi không thể yên lòng. Nghe nói hòa thượng Đức Bình muốn làm lễ cầu siêu, nên tôi đến, mà cũng là để cầu an trong lòng.” Kim Chấn Vũ nói về tình hình của mình xong, chỉ tay sang Tang Quân Dũng, “Cậu ta là vì Tiết Hiểu Hoa chết trong động thạch nhũ nên cũng đến để giải đen.”
“Biết thế tôi đã không đến. Suýt nữa đã bỏ mạng tại đây.” Tang Quân Dũng xem ra có vẻ tức tối, “Càng đến càng đen. Cầu siêu cho người chết thì có tác dụng gì? Giờ đây tôi càng kiên định với ý kiến của mình, những thứ này ấy à, đều là do người sống gây ra cả!”
“Anh không có chút gọi gì là kiêng nể đối với người đã khuất, sớm muộn gì cũng sẽ gặp quả báo.” Đức Bình lạnh lùng đáp lại lời của Tang Quân Dũng, “Lần này mọi người từ cõi chết trở về, lẽ nào không phải là lời cảnh báo từ thế giới âm gian.”
Lúc này Kim Chấn Vũ nhìn Tang Quân Dũng vẻ không hài lòng, dường như không thể chấp nhận được lời nói và hành động của cậu ta.
“Cái gì mà âm với cả gian? Sinh mệnh của tôi là do tôi nắm giữ, tôi mà thèm tin vào mấy thứ đó sao!” Tang Quân Dũng không một chút thỏa hiệp, anh ta vừa nói vừa đứng dậy, xem ra đã bình phục hoàn toàn. Sau một tiếng “Hic”, người được mệnh danh là dũng cảm nhất trên đảo này, một mình đùng đùng bỏ đi.
Căn phòng nhỏ rơi vào trạng thái tĩnh mịch khó xử, sau một hồi lâu, Đức Bình thở dài, hỏi vặn La Phi: “La Phi, anh hãy nói về các anh đi, một người không hề tin vào những chuyện ma quỷ, sao cũng có mặt ở đây?”
“Là do con muốn đến.” Mông Thiếu Huy chủ động trả lời, “Con muốn đến để cầu siêu cho mẹ của con đã bị chết trong trận sóng thần.”
“Ồ.” Đức Bình gật đầu, không nói gì thêm. Sau đó, có lẽ do còn mệt vì vừa mới bình phục sau ngộ độc, hoặc giả do cảm thấy bất lực, nên ông đã nhắm mắt lại, chìm vào suy nghĩ.
Tiếng gõ cửa lại vang lên, kèm theo tiếng gọi của Mông Thiếu Huy: “Cảnh sát La Phi, cảnh sát La Phi?”
La Phi lấy hết sức lắc đầu, lúc này anh mới nhớ lại là mình ăn trưa xong do không cưỡng lại được cơn buồn ngủ, nên đã trở vào phòng lăn ra ngủ li bì. Xem đồng hồ, đã gần sáu giờ tối, giấc ngủ này quả thật không ngắn chút nào.
Mông Thiếu Huy vẫn gọi bên ngoài phòng, La Phi vừa đáp lời vừa mặc quần áo chỉnh tề, sau đó ra mở cửa.
“Xin lỗi.” –Mông Thiếu Huy đứng ngoài cửa tỏ vẻ ngại ngùng, “Quấy rầy giấc ngủ của anh rồi.”
“Không sao, cũng đã đến lúc phải dậy rồi.” La Phi xua tay ra hiệu không vấn đề gì, sau đó hỏi: “Thế nào, chắc em có vấn đề gì hả?”
“Vâng! Lúc ăn trưa anh bảo là buổi tối hòa thượng Đức Bình sẽ cúng tế, cầu siêu cho các nạn nhân của trận sóng thần sao? Em cũng muốn đến đó, cùng tưởng niệm với mọi người.”
“Ồ.” La Phi nhớ lại, đúng là buổi trưa tôi có nhắc đến chuyện này, nhưng mà rất tùy hứng thôi, chứ không để ở trong đầu, vì anh vốn không tin và cũng chẳng có hứng thú với những chuyện như thế này. Có điều, mẹ Mông Thiếu Huy cũng đã gặp nạn trong trận sóng thần, hơn nữa lần cầu siêu này có một mối liên hệ đặc biệt với mẹ cậu, vì thế Mông Thiếu Huy tỏ ra khá quan tâm, âu cũng là điều dễ hiểu.
“Thôi được, để tôi đi cùng em.” La Phi suy nghĩ một lát xong thì nhận lời. Vì trên đảo liên tiếp xảy ra hai vụ án, tình hình chưa rõ, lúc buổi trưa La Phi đã dành cho Mông Thiếu Huy sự quan tâm đặc biệt, anh khuyên Mông Thiếu Huy từ nay đừng ra ngoài một mình vào buổi tối. Giờ cậu ta chủ động đến tìm anh, vừa là sự nghe lời, vừa thể hiện lòng tin tưởng, La Phi ít nhiều cũng cảm thấy vui trong lòng.
Hai người họ ăn nhẹ xong thì bắt đầu đi, họ đi men theo con đường nhỏ dưới chân núi về hướng bắc. Màn đêm buông xuống trên đảo rất nhanh, lúc này trời đã tối hẳn, con đường núi càng trở nên tối đen và tĩnh mịch. Dọc đường đi khá thuận lợi, nhưng gần đến nơi thì trời tối quá nên phải mất rất nhiều thời gian mới tìm được con đường nhỏ ẩn trong lùm cây. Khó khăn lắm mới tìm thấy đường chính, sau một hồi luồn lách qua các lùm cây, cuối cùng thì miếu thờ cũng đã xuất hiện trược mặt họ.
“Hơn bảy giờ rồi.” La Phi xem đồng hồ, “Chỉ e là chúng ta đến hơi muộn.”
“Cứ vào đi đã.” phòng trước của miếu thờ cửa vẫn mở, Mông Thiếu Huy có vẻ hơi sốt ruột, chưa kịp hỏi đã lao ngay vào bên trong. La Phi thấy tình hình như vậy cũng theo sát phía sau.
Cửa thông vào nhà sau thì đã đóng kín, trong phòng thắp một cây đèn dầu tối lờ mờ. Tiểu hòa thượng Huệ Thông ngồi nghệt một mình dưới ngọn đèn dầu, tự nhiên trông thấy có hai vị khách không mời mà đến, cậu ta vội đứng dậy, tay phải xua xua, ngăn không cho họ đi tiếp, tay trái thì lấy ngón trỏ dựng đứng áp vào môi, ra hiệu không được nói.
La Phi hiểu ý, đến gần tiểu hòa thượng, hạ thấp giọng hỏi: “Thầy của em đâu?”
Huệ Thông lấy tay chỉ về phía nhà sau, trả lời một cách dè dặt: “Họ đang cúng tế. Các anh nói nhỏ một chút, kẻo kinh động đến các vong linh ở dưới mộ.”
“Họ?” La Phi chau mày vì thấy lạ, “Ngoài sư phụ em ra, còn có ai nữa?”
“Trưởng thôn Kim, có cả người khai động thạch nhũ Tang Quân Dũng nữa.”
“Hai người họ cũng đến à?” –tình huống bất ngờ này khiến La Phi không lường trước được, càng làm anh thêm vài phần hứng thú với lần cúng lễ cầu siêu này. Anh ngoảnh đầu nhìn Mông Thiếu Huy, Mông Thiếu Huy không suy nghĩ nhiều, bước tới nói với Huệ Thông: “Chúng tôi cũng đến để tham gia cúng tế, em vào nói với sư phụ em một câu đi.”
“Không được.” –tiểu hòa thượng xua tay liên tiếp, “Nơi cúng lễ cầu siêu cho các vong linh là nơi không được nói chuyện ồn ào, những người trên đảo đếu biết luật lệ này.”
“Thầy thường xuyên phải cúng tế, thế có việc gấp thì làm thế nào? Em với thầy phải có cách liên lạc nào đó chứ?” La Phi truy hỏi.
“Có lúc em dùng giấy bút để trao đổi, dù gì thì cũng không được nói chuyện tại nơi cúng tế, nếu không sẽ bị ma ám.” –tiểu hòa thượng mở to mắt, nói như đúng rồi.
Mông Thiếu Huy vẫn bám riết không thôi: “Thế thì em vào trong viết mẩu giấy nói với thầy đi, cũng không phiền lắm mà.”
“Không không không.” –tiểu hòa thượng biểu lộ nét mặt sợ sệt, “Em không đến chỗ đó đâu, nhất là vào lúc này.”
“Vậy phải tính sao? Em không thể để chúng tôi không tham gia được lễ cúng tế đúng không?” –La Phi thấy tiểu hòa thượng nhát gan bèn hù dọa, “Chúng tôi đều đã có hẹn với sư phụ của em rồi, chỉ có điều là đến muộn một chút thôi, em không cho chúng tôi vào, đến lúc đó sư phụ em chắc chắn sẽ không tha cho em đâu.”
Nếu vậy, tiểu hòa thượng đâm ra chần chừ, nhất là La Phi, ông ấy đã gặp hai lần, biết người này là cảnh sát, đến sư phụ còn nể, nếu chẳng may đắc tội với anh ta, thật không biết phải ăn nói thế nào.
Tiểu hòa thượng thảng thốt hỏi: “Có đúng là các anh đã có hẹn với thầy không?”
La Phi gật đầu, Mông Thiếu Huy có vẻ không quen nói dối, vẻ mặt có chút gượng gạo.
Tiểu hòa thượng phân vân đôi chút, cuối cùng cũng đã phải nhượng bộ: “Thôi được, các anh uống “tịnh tâm trà” vào đi đã, rồi tự mình đi, tôi thì chắc chắn là không đi rồi.”
‘“Tịnh tâm trà’? Đó là cái gì vậy?” La Phi và Mông Thiếu Huy bốn mắt nhìn nhau, đều không hiểu gì lắm.
“Ai đến chỗ làm lễ cũng đều phải uống ‘tịnh tâm trà’ trước đã. Nếu không cái tâm anh sẽ không thanh tịnh, rất dễ bị cô hồn oán quỷ nó mê hoặc, sư phụ và mọi người đều uống cả, các anh muốn vào đó, thì cũng nên uống trước đi.” tiểu hòa thượng vừa nói vừa lại gần chiếc bàn, sau đó nhấc lên một ấm trà, rót vào hai chiếc cốc trống.
Nếu đã là qui định, thì cũng không nên nói nhiều làm gì, vì thế họ lại gần, mỗi người cầm lấy một cốc trà. Bằng tiềm thức của mình, La Phi lấy tay trái tì vào mép bàn, cảm thấy tay ướt sũng, cúi đầu nhìn thì thấy chỗ mép bàn dính khá nhiều nước trà, dưới mặt đất cũng có vệt nước loang.
“Cái thằng bé này, làm việc vụng tay vụng chân, rót có hai cốc trà mà cũng vung vãi tung tóe.” La Phi trộm nghĩ, nhưng cũng không nói gì, tay cầm cốc trà đưa lên miệng.
Nước trà màu xanh nhạt, ngửi có mùi thơm nhẹ, nhưng nếm vào thì vị lại rất đắng. La Phi vốn không thích uống trà, thấy nước đã nguội, bèn dốc ngược một hơi xuống bụng, cũng chả kịp nhâm nhi hương vị ra làm sao.
Mông Thiếu Huy đúng cạnh cũng uống hết theo, sau đó nhìn về phía Huệ Thông: “Bây giờ thì chúng tôi vào được rồi chứ?”
“Để tôi viết cho hai người mẩu giấy, nói rõ tình huống với sư phụ.” –tiểu hòa thượng vừa nói vừa lấy giấy bút ra, viết một hồi xong, đưa cho La Phi cầm.
La Phi thoáng đọc dưới ánh đèn mờ, chỉ thấy trên đó ghi: Sư phụ, hai người này nói là đã có hẹn với thầy đến dự lễ cúng tế, cứ nằng nặc đòi vào. Con đã nói hết với họ những điều cần chú ý và cũng đã cho họ uống tịnh tâm trà rồi.
Tiểu hòa thượng chỉ tay về phía cánh cửa thông vào nhà sau: “Các anh tự mình mở cửa đi, vào trong đó đưa giấy này cho sư phụ.”
Cánh cửa bằng gỗ đã qua nhiều năm, trông bề ngoài thật cũ nát. Hai tay La Phi đỡ lấy vòng cửa, khẽ dùng sức, cùng với thứ âm thanh “cót két” lạ lùng cánh cửa gỗ từ từ mở ra hai bên, lộ ra một thế giới u ám đằng sau cánh cửa. Tiểu hòa thượng bất giác thu mình về phía sau, thần sắc kinh hãi, như thể có cái gì đó rất đáng sợ nhảy tót ra từ sau khe cửa.
La Phi và Mông Thiếu Huy đi vào nhà sau, tiện tay đóng cửa lại. Ánh đèn bị che khuất sau đó, toàn bộ nhà sau bị bao trùm trong bóng tối, cỗ quan tài đặt chính giữa lóe lên chút ánh sáng yếu ớt, không khí vô cùng ma mị.
Trên khoảng đất trống bên ngoài nhà, ba người họ đang ngồi bệt xuống đất mặt hướng về ngôi mộ vong linh rất to, tư thế trông rất trang nghiêm. Người ở giữa mặc áo choàng, đầu trọc, chính là hòa thượng Đức Bình, Kim Chấn Vũ và Tang Quân Dũng lần lượt ngồi hai bên. Nghe tiếng cánh cửa kêu, ba người đồng thời quay đầu lại, nhìn La Phi và Mông Thiếu Huy với ánh mắt kinh ngạc.
La Phi tuy không tin vào những chuyện ma quỷ, trong tình huống này, cũng không khỏi cảm thấy có chút gì đó kính nể và kìm nén. Anh bước nhẹ lại gần, trước tiên anh đưa cho Đức Bình mẩu giấy mà Huệ Thông viết.
Đức Bình đọc một lượt nội dung trên mẩu giấy dưới ánh trăng, sau đó ngẩng mắt nhìn La Phi và Mông Thiếu Huy. Bỗng ông chau mày lại, thần sắc trông rất chi là cổ quái, ngay sau đó, miệng ông giật giật, hai tay run lên lẩy bẩy. Tờ giấy cũng rơi khỏi tay ông, gió thổi phất phơ bay về phía ngôi mộ.
La Phi không hiểu tại sao, cũng không thể mở miệng hỏi, đương lúc thắc mắc, thì nhận thấy Kim Chấn Vũ đứng bên cạnh cũng có thay đổi, khuôn mặt co lại, hai tay đặt lên bụng dưới, trông vẻ rất chi là đau khổ.
Chứng kiến cảnh này, Tang Quân Dũng không chịu nổi, đứng phắt dậy, không còn để ý gì đến luật lệ cúng tế nữa, ồm ồm hỏi: “Mọi người làm sao thế?”
Đức Bình vùng vẫy đứng dậy: “Mau… mau đỡ chúng tôi ra ngoài…”
La Phi và mọi người không dám trì hoãn, đỡ Đức Bình và Kim Chấn Vũ cùng ra nhà ngoài. Huệ Thông đang đợi ở đó, trông thấy sự cố này, hoảng hốt hỏi: “Sư phụ… người, người bị làm sao thế?”
“Mau, mau đi gọi… bác sĩ Lý Đông đến đây!” –Đức Bình gần như lấy hết sức mới bật ra được câu này, những giọt mồ hôi to như hạt đậu lăn trên trán ông, Kim Chấn Vũ cũng đang cắn răng, tình trạng trông cũng không khá hơn ông là mấy.
Huệ Thông vội vàng đẩy cửa lao ra ngoài. La Phi lúc này đã định thần trở lại, trông triệu chứng hai người, phát hiện ra điều gì đó, anh nói: “Hai người đã bị trúng độc, có phải đã ăn phải cái gì không? Trước hết cần nôn ra những thứ còn sót lại trong dạ dày đã!”
Câu nói này đã nhắc nhở mọi người, Kim Chấn Vũ lập tức cho ngón tay vào miệng móc họng, chả mấy chốc đã thấy cổ ông ta vươn về phía trước, đồng thời miệng há to, nôn ra một đống. Đức Bình đứng bên cạnh cũng bắt chước làm theo, La Phi không nề hà bẩn thỉu và mùi hôi khó chịu, ngồi xổm xuống xoa đỡ lưng giúp ông nôn hết.
Đúng lúc này, Mông Thiếu Huy tự nhiên cũng ôm bụng vẻ mặt lo lắng: “Toi rồi, hình như mình cũng có cảm giác không ổn.” La Phi định hỏi thì bỗng nhiên có cảm giác nhói đau từ dạ dày, mồ hôi ra nhễ nhại, toàn thân mềm nhũn.
“Chúng tôi cũng… cũng bị trúng độc rồi!” to cao khỏe mạnh như Tang Quân Dũng mà lúc này mà cũng phải ôm bụng kêu đau.
La Phi cố nhịn đau, thúc giục mọi người: “Mau, mau nôn ra đi!” không đợi anh nói hết câu, Mông Thiếu Huy và Tang Quân Dũng đã lấy tay móc họng, chả mấy chốc mà căn phòng nhỏ toàn thấy tiếng nôn ọe không ngớt, năm người nôn ra cả đám.
--- ------ BỔ SUNG THÊM --- ------
Chương 18: Thoát chết
Hàng ngày ăn tối xong, Lý Đông đều ngồi tĩnh tâm nghiền ngẫm sách y học dưới ánh đèn, đây là thói quen anh rèn được ngày theo học thầy lang Tiết, thời gian đọc sách mỗi lần của anh thường kéo dài từ hai đến ba tiếng đồng hồ. Hôm nay đang đọc đến chỗ chăm chú thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa dồn dập, cùng lúc nghe thấy tiếng người gọi hoảng loạn: “Bác sĩ Lý Đông! Bác sĩ Lý Đông!”
Lý Đông chột dạ, biết là có người đang cần được cấp cứu, vội vàng ra mở cửa. Anh ngạc nhiên khi thấy người đứng ngoài cửa lại là tiểu hòa thượng Huệ Thông –người trông coi mộ vong linh cùng với Đức Bình.
“Bác sĩ Lý, anh mau đến đó đi! Sư phụ tôi và mọi người gặp chuyên rồi!” tiểu hòa thượng hoảng hốt kể lại sơ qua về tình hình xảy ra. Nếu là hai người xuất hiện cùng một triệu chứng tại cùng một thời điểm, Lý Đông nhận định khả năng là bị ngộ độc thực phẩm. Anh sắp xếp hộp thuốc, đem theo thuốc giải độc, cùng với Huệ Thông lao ngay đến hiện trường.
Theo lời kể của Huệ Thông thì chỉ có hòa thượng Đức Bình và Kim Chấn Vũ là có triệu chứng khác thường, nhưng khi Lý Đông có mặt tại căn phòng nhỏ, thì cảnh tượng diễn ra trước mặt khiến anh vô cùng ngạc nhiên: năm con người nằm có ngồi có, ngổn ngang xiêu vẹo dưới nền nhà, vùng vẫy một cách đau khổ, nôn ọe khắp nơi. Đức Bình và Kim Chấn Vũ bị nặng nhất thì mặt đã tái nhợt, hai mắt lim dim, đến kêu rên cùng không còn sức nữa.
Lý Đông thấy tình hình có vẻ nguy cấp, lập tức lại gần, lấy tay bắt mạch cho Đức Bình, đồng thời sốt ruột hỏi: “Các ông vừa ăn uống cái gì vậy?” giải độc quan trọng nhất là phải bắt đúng bệnh, vì thế việc trước tiên cần phải biết nguyên nhân dẫn đến ngộ độc.
Mặc dù cơ thể đang bị giày vò đau đớn, nhưng trong quá trình đợi người cứu viện đến, trong đầu La Phi đã có phán đoán sơ bộ về nguyên nhân bị ngộ độc, anh lấy tay chỉ vào ấm trà trên bàn, nhắc nhở Lý Đông: “Kia kìa… là cái ‘tịnh tâm trà’ đó!” Cơ thể Đức Bình lúc này đã rất yếu, nhưng nghe thấy La Phi nói vậy, ông cố gắng mở to mắt, đồng thời khẽ gật đầu, tỏ ý tán đồng.
Lý Đông vội đến bên cạnh bàn, lật tay dốc hết nước và bã trà lên mặt bàn. Sau đó anh chau mày, lật xem kĩ đống bã trà. Một lát sau, có vẻ như đã phát hiện được điều gì, mắt anh bừng sáng lên, phấn khích nói: “Phải rồi, phải rồi! Chính là nó!”
La Phi và Mông Thiếu Huy quay sang nhìn nhau, ánh mắt đều lóe lên niềm vui vì biết mình đã có cơ hội được cứu sống. Đức Bình và Kim Chấn Vũ hơi thở đã rất yếu, không còn sức để phản ứng. Duy chỉ có Tang Quân Dũng thì vừa rên xiết vừa đưa mắt nhìn Lý Đông vẻ thăm dò, không biết đang nghĩ điều gì.
Lúc này Lý Đông đã nhanh chóng mở hộp thuốc, lấy ra một bộ bơm tiêm và vài ống thuốc tiêm. Sau đó anh quỳ một đầu gối xuống đất, lần lượt tiêm thuốc giải độc cho Đức Bình, Kim Chấn Vũ, Mông Thiếu Huy, La Phi và Tang Quân Dũng. Xong anh cầm cây đèn dầu lên, rảo bước đi ra khỏi phòng.
Căn phòng nhỏ bỗng chốc tối đen, chỉ nghe thấy tiến kêu rên xiết và thở hổn hển lúc trầm lúc bổng của năm bệnh nhân. Huệ Thông thấp thỏm đứng bên cạnh, chân tay lóng ngóng.
Mũi tiêm giải độc đó quả là hiệu nghiệm, chả mấy chốc, La Phi đã cảm thấy bụng bớt đau, nhưng cơ thể vẫn còn mềm nhũn không có chút sức lực nào. Đợi thêm một lúc nữa, thì thấy ánh đèn dầu lóe sáng, Lý Đông trở lại từ những lùm cây.
Bước vào phòng một cái là Lý Đông đặt cây đèn lên bàn, lớn tiếng giục Huệ Thông: “Mau đi đun một ấm nước nóng, còn nữa, chuẩn bị mấy cái cốc sạch!”
Huệ Thông vâng lời, chân tay bắt đầu bận rộn. Lý Đông đem ít quả khô đang cầm chặt bên tay trái đặt dưới ánh đèn, nheo mắt lựa chọn thật tỉ mỉ. Tuy ngoài trời nhiệt độ về đêm giá lạnh, nhưng trên trán anh lại có một lớp giọt mồ hôi dày đặc, xen kẽ cả mấy vết bụi bẩn, xem ra anh đã phải rất vất vả lắm mới lấy được chỗ quả khô này.
Lúc này đang là mùa đông, lá cây đã rụng hết, chỉ còn lại những cành cây khẳng khiu và quả khô như hình quả đậu cong queo. Lý Đông đang tỉ mỉ bóc từng lớp vỏ, lấy ra những hạt như hạt đậu ở bên trong, để dồn trên mặt bàn cạnh cây đèn.
Khi Huệ Thông đun nước xong, công việc của Lý Đông cũng đã cho thấy thành quả: những hạt nhỏ gom lại đã đựng đầy một nắp cốc. Anh thở phào nhẹ nhõm, nhìn mấy người đang nằm trên nền nhà, ánh mắt lại thêm vài phần chắc chắn.
Ở đằng này Huệ Thông đã tìm được mấy cái cốc sạch, đặt trên mặt bàn. Lý Đông cầm một cái nắp cốc, dùng phần lưng nhẵn bóng nghiền nát chỗ hạt trần, sau đó đem bột nghiền chia thành năm phần bằng nhau, lần lượt cho vào năm cốc.
Làm xong những việc này, Lý Đông lấy ấm nước từ bếp lên, đổ nước đang sôi vào tráng cốc. Sau đó anh gọi Huệ Thông lại, đem năm cốc “trà nóng” chia cho năm người bị ngộ độc, năm người họ nhao nhao nhận lấy cốc trà của mình, mặc dù nước trà vẫn còn nóng, nhưng họ vẫn uống vèo cái hết.
Lúc này Lý Đông mới rảnh tay để đưa lên lau mồ hôi trên trán, sau đó anh xúc động nói: “Ổn rồi. Tính mạng của mấy người bây giờ mới coi là được bảo toàn.”
“Rốt cục là do nguyên nhân gì? Ghê thế cơ à?” La Phi vừa mới hồi phục được một chút đã lại bộc lộ thiên tính của một cảnh sát, anh biết câu trả lời đã nằm trong đầu Lý Đông từ lâu.
Lý Đông lại gần bàn bới lật đống bã chè, sau đó tay cầm đèn dầu trở về chỗ La Phi, xòe bàn tay trái ra dưới ánh đèn. Chỉ thấy giữa lòng bàn tay anh dính hai phiến chè, đều có hình elip nhọn đầu, rộng năm milimét, dài khoảng hai centimét, dưới ánh đèn mờ, thấp thoáng màu cà phê.
“Bên tay trái tôi là lá của loài cây thường gặp trên đảo, người dân nơi đây gọi là cỏ thơm đắng, thường được mọi người hái về cho lẫn với lá chè, khi pha trà lên có mùi thơm rất đặc biệt, lúc mới uống vào tuy có vị đắng, nhưng dư vị khó quên, nhiều người rất thích, tất nhiên, cũng có người rất ghét.”
Quả nhiên, Lý Đông giải thích tiếp: “Bên tay phải tôi là lá của loài cây hiếm gặp, thường chỉ sinh trưởng ở nơi ẩm thấp trong hang núi. Số người trên biết đến nó e rằng cũng không nhiều. Khi tôi còn theo học thầy lang Tiết, sư phụ đã từng giảng giải rất kĩ cho tôi về loài cây này. Tên thường gọi của nó là ‘Mỹ nhân nhãn’, thuộc loài cỏ linh lăng. Người bình thường rất dễ nhầm lẫn với cây cỏ thơm đắng.”
La Phi lại gần quan sát kĩ, nhận thấy giữa hai phiến lá này quả nhiên có sự khác biệt rất nhỏ. Ria mép của lá cỏ thơm đắng có hình răng cưa rất nhỏ, còn “Mỹ nhân nhãn” thì lại khá bằng phẳng, anh gật đầu ra vẻ có chính kiến riêng: “Vậy thì thủ phạm của chất độc là thằng ‘Mỹ nhân nhãn’ này rồi?”
“Nói thế cũng không hoàn toàn chính xác.” Lý Đông lắc đầu vẻ nước đôi, “Vì bản thân ‘Mỹ nhân nhãn’ vốn không có độc tố, nhưng ở nhiệt độ cao thành phần có trong lá của nó sẽ xảy ra phản ứng hóa học với chất amin có trong lá chè, tạo nên một chất kịch độc, đủ để gây chết người. Khi tôi còn đang học nghề, đã từng có người uống nhầm và bị trúng độc, khi ấy tôi đã học được ở thầy cách giải độc. Thuốc tiêm vào chỉ có tác dụng giảm đau và tăng cường khả năng sống sót, thảo dược mà sau đó tôi đi hái về mới thực sự có tác dụng giải độc, chính là cốc nước mà các anh vừa uống. Kể ra mạng các anh cũng lớn thật. Lọai độc tố này vô cùng lợi hại, nếu các anh không kịp thời nôn bớt chất độc ra, e rằng rất khó qua khỏi.”
La Phi trộm nghĩ, mình đúng là vừa mới trở về từ cõi chết, không khỏi có chút dư âm của sự sợ hãi: “Nói vậy, rất có thể là do người làm chè đã hái nhầm ‘Mỹ nhân nhãn’, suýt nữa đã gây nên đại họa.” thực ra trong đầu anh cũng đang đoán là có người cố tình đầu độc, nhưng do tình hình chưa rõ, nên mới không dám nói thẳng ra, đề phòng mọi người lo sợ đoán già đoán non.
Lý Đông cúi đầu, trong dầu dường như có dự tính nào đó, đoạn quay sang hỏi Đức Bình: “Trà này từ đâu mà ra?”
Đức Bình xem chừng là người bị trúng độc nặng nhất, lúc này người vẫn còn rất yếu, ông không trả lời ngay, chỉ đánh mắt sang phía Huệ Thông.
Tiểu hòa thượng rụt rè nói: “Cái này… cái này là do sáng sớm nay con mua ở chỗ bà Vương.”
Nói đến bà Vương, mọi người có mặt ở đó, trừ La Phi và Mông Thiếu Huy ra, ai cũng biết người này. Bà ta buôn bán một vài thứ tạp hóa nhỏ, trong đó có cỏ thơm đắng do bà ta tự hái để bán cho người dân trên đảo thích uống loại trà này.
“Nếu vậy thì, tôi phải đến chỗ bà Vương ngay, để xem số chè còn lại có vấn đề gì không” là một bác sĩ, Lý Đông rất có tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp đối với sức khỏe của người dân trên đảo. Trước khi đi, anh căn dặn mấy người sức khỏe chưa hoàn toàn bình phục: “Mấy bác tốt nhất nên tĩnh dưỡng một vài hôm, cố gắng uống thật nhiều nước. Phải rồi, cảnh sát La Phi, nếu anh tìm tôi có việc gì thì sau hai tiếng nữa đến nhà tôi.”
La Phi để ý lúc Lý Đông nói câu cuối cùng, ánh mắt đầy vẻ hàm ý, anh đã hiểu ý Lý Đông nhưng bề ngoài vẫn làm như không có chuyện gì. Lý Đông đi rồi, Huệ Thông dĩ nhiên lại bận quét dọn căn phòng bừa bộn. Năm người họ dần dần hồi phục, độ nửa tiếng sau, người trúng độc nặng nhất là Đức Bình cũng đã ngồi dậy được.
Sự việc vừa mới xảy ra kể cũng thật kì quặc, La Phi lúc này bắt đầu sắp xếp lại suy nghĩ, hầu như đã giải đáp được một vài điều bí mật trong đó.
“Sao hai người cũng đến tham dự lễ cầu siêu à?” trước tiên anh đặt câu hỏi cho Kim Chấn Vũ và Tang Quân Dũng.
“Tôi là trưởng thôn, gần đây những việc xảy ra trên đảo khiến tôi không thể yên lòng. Nghe nói hòa thượng Đức Bình muốn làm lễ cầu siêu, nên tôi đến, mà cũng là để cầu an trong lòng.” Kim Chấn Vũ nói về tình hình của mình xong, chỉ tay sang Tang Quân Dũng, “Cậu ta là vì Tiết Hiểu Hoa chết trong động thạch nhũ nên cũng đến để giải đen.”
“Biết thế tôi đã không đến. Suýt nữa đã bỏ mạng tại đây.” Tang Quân Dũng xem ra có vẻ tức tối, “Càng đến càng đen. Cầu siêu cho người chết thì có tác dụng gì? Giờ đây tôi càng kiên định với ý kiến của mình, những thứ này ấy à, đều là do người sống gây ra cả!”
“Anh không có chút gọi gì là kiêng nể đối với người đã khuất, sớm muộn gì cũng sẽ gặp quả báo.” Đức Bình lạnh lùng đáp lại lời của Tang Quân Dũng, “Lần này mọi người từ cõi chết trở về, lẽ nào không phải là lời cảnh báo từ thế giới âm gian.”
Lúc này Kim Chấn Vũ nhìn Tang Quân Dũng vẻ không hài lòng, dường như không thể chấp nhận được lời nói và hành động của cậu ta.
“Cái gì mà âm với cả gian? Sinh mệnh của tôi là do tôi nắm giữ, tôi mà thèm tin vào mấy thứ đó sao!” Tang Quân Dũng không một chút thỏa hiệp, anh ta vừa nói vừa đứng dậy, xem ra đã bình phục hoàn toàn. Sau một tiếng “Hic”, người được mệnh danh là dũng cảm nhất trên đảo này, một mình đùng đùng bỏ đi.
Căn phòng nhỏ rơi vào trạng thái tĩnh mịch khó xử, sau một hồi lâu, Đức Bình thở dài, hỏi vặn La Phi: “La Phi, anh hãy nói về các anh đi, một người không hề tin vào những chuyện ma quỷ, sao cũng có mặt ở đây?”
“Là do con muốn đến.” Mông Thiếu Huy chủ động trả lời, “Con muốn đến để cầu siêu cho mẹ của con đã bị chết trong trận sóng thần.”
“Ồ.” Đức Bình gật đầu, không nói gì thêm. Sau đó, có lẽ do còn mệt vì vừa mới bình phục sau ngộ độc, hoặc giả do cảm thấy bất lực, nên ông đã nhắm mắt lại, chìm vào suy nghĩ.