Duyên Kỳ Ngộ

Chương 14


Chương 14.1
Sau chuyến đi đó, Lưu Giác không đến tìm A La nữa. Ban ngày các phu nhân cần làm gì cũng gọi nàng, A La đành phải đợi đêm đến mới vượt tường ra ngoài, chuẩn bị cho công cuộc chạy trốn.
Trong Đường viên, thất phu nhân, A La và Tiểu Ngọc đều hồi hộp, căng thẳng chờ đợi ngày Thanh Phỉ xuất giá. Một năm trước vú Trương đã viện lý do già yếu xin xuất phủ về quê, rời khỏi Phong thành. Theo sắp đặt của A La, vú đã đến thành Lâm Nam ở biên giới nước Trần.
Mọi người đếm từng ngày. A La nhắc thất phu nhân và Tiểu Ngọc không được lo lắng, cứ coi như cuộc dạo chơi ra khỏi phủ bình thường. Nàng nói: “Tuyệt đối không được để cho ai biết mình đang nghĩ gì. Cho dù họ đoán đúng cũng chỉ là dự đoán, chỉ cần mình không nhận, là không có chuyện gì”.
Cuối cùng cũng đến hôm trước ngày Thanh Phỉ xuất giá, A La và thất phu nhân mặt mày hớn hở mang quà cưới đến tặng Thanh Phỉ, nói một loạt những lời chúc tụng hay ho, rồi trở về Đường viên như mọi ngày. Tiểu Ngọc khóa cửa ngoài, ba người khẩn trương cải trang thành nam nhân, chỉ mang theo ngân lượng và những đồ châu báu, đi tắt qua hậu viên vào rừng trúc rồi vượt tường bao một cách thuận lợi. A La dẫn đường đưa họ đi thẳng đến ven sông, ở đó nàng đã đã thuê sẵn cỗ xe ngựa đứng chờ, sau khi trao bạc, cỗ xe vòng lại đi về phía cổng thành phía đông.
Ra khỏi phủ, thất phu nhân thở một hơi dài, thấy A La điều khiển xe ngựa vẻ thành thạo bèn hỏi: “Tam Nhi, con học đánh xe ngựa từ bao giờ vậy?”.
A La cười: “Sau khi biết cưỡi ngựa, con bảo Tử Ly kiếm cỗ xe dạy con đánh chơi, còn bảo huynh ấy lên xe đi dạo, bên trong để sẵn đồ dùng, đồ ăn, có thể đi đến đâu nghỉ đến đó, cứ như vậy, dần dần con biết đánh xe thôi”.
Thất phu nhân nói: “Kỳ thực Ly Thân vương cũng rất thật lòng với con”.
“Mẹ à, con chỉ coi huynh ấy là đại ca thôi. Buổi tối hôm đó, Tử Ly bảo con sau này không nên tin huynh ấy. Con cũng không biết phải làm thế nào, có lẽ từ nay chẳng còn gặp lại huynh ấy nữa”. A La thở dài, không muốn nhắc đến Tử Ly. Bây giờ chàng đang xây phủ trong sơn cung, bắt đầu vạch mưu tranh đoạt vương vị với thái tử. Lại còn Lưu Giác, chàng đã nói thật, nếu biết nàng chạy trốn, với tính cách của Lưu Giác, nếu để bị bắt lại, mình không chết cũng bị lột da. “Vút!”, A La vung roi, dẹp bỏ những suy nghĩ lan man, chuyên tâm đánh xe.
Đến khu dân cư phía đông nam Phong thành, A La nhảy xuống dùng vải dày bọc móng ngựa, lặng lẽ len lỏi trên đường ngõ. Đi lòng vòng suốt một canh giờ, họ mới đến được ngôi nhà đã mua từ trước.
Tiểu Ngọc đỡ phu nhân xuống xe, A La dẫn họ vào sân, nàng vào nhà lấy ra những thứ đã chuẩn bị sẵn, nói với thất phu nhân: “Mẹ à, con và Tiểu Ngọc đã chuẩn bị lương thực và đồ dùng đủ sống trong nửa năm, quản gia đã cho nghỉ rồi. Mẹ và Tiểu Ngọc cứ đóng chặt cổng nghỉ ngơi, Tiểu Ngọc đã đến đây cũng biết tình hình, bây giờ con phải đi làm nốt một số việc”.
Thất phu nhân nghẹn ngào: “Tam Nhi, con phải cẩn thận đấy!”.
A La nhìn trời, còn một canh giờ nữa cổng thành sẽ mở. Nàng gật đầu: “Con sẽ bình an trở về”. Nói đoạn, nhảy lên xe ngựa đi về phía cổng thành phía nam.
Nàng thận trọng đứng chờ trong một con ngõ cách cổng thành phía nam nửa dặm. Giờ Mão ba khắc bắt đầu mở cổng, đó là quy định của Phong thành, không có chiến sự, lính gác sẽ không tra xét người qua lại. A La thay một chiếc áo choàng màu bạc rất nổi bật, thầm nghĩ, như vậy mọi người đều sẽ nhìn rõ.
Bình thường vào giờ Thìn, thất phu nhân đều đến vấn an lão gia và đại phu nhân. Giờ Thìn hôm nay bà phải đến trang điểm cho Thanh Phỉ. Nếu thất phu nhân không đến, gia nhân phát hiện sẽ bẩm báo Lý tướng. Lúc đó mọi người còn mải lo hôn lễ của Thanh Phỉ, phải mở tiệc mời bá quan bằng hữu, tướng phủ sợ sẽ to chuyện, đến khi ông ta quyết định đi tìm cũng sẽ không làm ầm ĩ, cho nên không đáng sợ. Điều duy nhất khiến A La sợ đó là Lưu Giác và Tử Ly. Nhưng Tử Ly do đã cưới Cố tướng thiên kim, sợ bị mang tiếng nên sẽ không truy đuổi. Còn Lưu Giác khi được tin, sớm nhất cũng là giờ Tỵ, trong thời gian này nàng có hai canh giờ để sắp đặt mọi thứ.
A La tính thời gian, nhìn những đồ mang theo trên xe, tự tin cười. Nhìn trời đã rạng, nền trời phía đông đã rạn hình vảy cá, nàng ra roi quất ngựa nhằm hướng cổng thành phía nam.
Lúc đó lính gác đang vừa ngáp vừa mở cổng thành, trước cổng chỉ có lác đác vài nông phu chở rau quả đi qua. Chợt có tiếng vó ngựa dồn dập, một vị công tử khôi ngô vận áo choàng màu trắng bạc đánh một cỗ xe ngựa lao đến, miệng la lớn: “Nhà có người ốm, phải về quê gấp, mau tránh đường!”.
Phong tục của Phong thành, khi có người nhà bệnh nặng thấy khó qua khỏi, đều cố gắng đưa về quê trước khi tắt thở. Lính gác thông cảm nhìn theo chiếc xe ngựa lao qua cổng thành, thầm cảm kích tấm lòng hiếu thuận của vị tiểu công tử kia, cầu mong cho chàng sớm đưa người thân bình an về nhà.
A La đánh xe ngựa ra khỏi cổng thành, giảm tốc độ cho xe đi xuống cầu phao, quay đầu lấy chai dầu hỏa mang theo, tưới lên mép cầu. Vượt qua cầu, lại phóng như bay, men theo đường cái đi tiếp một canh giờ, khi đường đi dốc dần, núi hai bên càng sừng sững hiểm trở, nàng mới đánh xe đi sâu vào trong một khu rừng ven đường. Xuống xe, tháo dây cương, quất roi vào mông ngựa, thả nó đi, con ngựa đau lồng lên, chạy thẳng.
Không kịp nghỉ lấy sức, nàng lấy trong xe một cái bọc nhỏ bằng giấy dầu buộc vào người, hất quần áo và mấy thứ lặt vặt bừa bãi trên xe, dùng chai tiết lợn mang theo vẩy lên đó, vẩy cả trên mặt đất, ngụy trang thành một vụ cướp đường. Không giống cũng không sao, chỉ cần có hiện trường ít nhiều cũng có manh mối để người ta suy đoán tưởng tượng, chỉ cần có thể đánh lạc hướng để kéo dài thời gian. A La thận trọng bọc chai dầu hỏa và chai tiết lợn buộc vào con ngựa còn lại, nhảy lên ngựa phi thục mạng về phía Phong thành. Đoán là cách chỗ vứt xe ngựa chừng khá xa nàng mới đập nát mấy cái chai đó giấu đi, lại nhìn mặt trời, tính thời gian, đoán là khoảng giờ Thìn sáu khắc, nàng liền thúc ngựa phi về phía Phong thành.


Giờ Thìn một khắc, được tin người của Đường viên đã biến mất, Lý tướng tức tối, đem theo gia nhân xông đến Đường viên, khóm hải đường trong sân cành lá đung đưa, thân thẳng tắp, Đường viên vắng lặng không một bóng người. Lý tướng đạp tung cửa phòng thất phu nhân, chăn gối gọn gàng, trong rương quần áo vẫn nguyên vẹn. Lý tướng ngẩn người nhìn gian nhà trống rỗng, miệng lẩm bẩm: “Giỏi lắm, Ngọc Đường! Mi dạy dỗ con gái thế đấy! A La, mày giỏi lắm! Không những cố tình giấu tài, còn dám lén mưu tính thoái hôn! Bọn chúng trốn khỏi phủ thế nào?”.
Chương 14.2
Gia nhân giật nảy mình bởi tiếng hét của Lý tướng, sợ hãi liếc nhìn đại phu nhân.

Đại phu nhân cất giọng nanh nọc: “Gia nhân lục tìm mới phát hiện, sâu trong rừng trúc sau hậu viên có một đống đá, có thể trèo lên vượt tường ra ngoài! Nhìn đám rêu phong, hẳn chúng đã chuẩn bị từ lâu! Đồ gái thanh lâu mạt hạng, dám học thói hạ tiện trốn ra khỏi phủ”.
Nếu bây giờ ba người kia xuất hiện trước mặt, không chừng Lý tướng sẽ bất chấp lời hứa hôn với phủ An Thanh vương giết chết bọn họ.


Mặt Lý tướng xám đen, ngồi trên ghế, ngực phập phồng, bộ râu rung rung, chứng tỏ ông ta tức giận đến mức nào.

Trong phủ trang hoàng rực rỡ, đèn lồng gấm đỏ chăng khắp nơi, chỗ nào cũng hoa tươi, tất cả đều nói lên hôm nay là ngày đại hỷ, ngày thứ nữ của Lý gia xuất giá. Nhưng không ai tỏ ra vui mừng, Thanh Phỉ sắc mặt nhợt nhạt, không biết liệu Lý tướng có vì quá phẫn nộ mà hủy bỏ hôn lễ hay không. Đại phu nhân dè dặt phá vỡ bầu không khí yên lặng: “Lão gia, mau sai người đuổi theo!”.

“Đuổi theo cái gì!”. Lý tướng đập bàn thét: “Lẽ nào định để dân chúng Phong thành đều biết thất phu nhân và tam tiểu thư của tướng phủ bỏ trốn? Lẽ nào để thiên hạ cười vào mặt bản phủ!”.

“Nhưng, chẳng lẽ để cho bọn chúng tẩu thoát? Chuyện này biết ăn nói thế nào với phủ An Thanh vương?”. Đại phu nhân than thở.
Lục phu nhân nói: “Lão gia, sớm muộn phủ An Thanh vương cũng biết, thiếp nghĩ việc này không thể chậm trễ, nên sớm báo tin cho tiểu vương gia, biết đâu người của vương phủ có thể đuổi bắt về. Nếu chậm trễ, để người đi xa mất, vương phủ e sẽ trách tội!”.

Lý tướng thở dài: “Cũng phải, mau sai người đến vương phủ báo tin! Nói là mới sáng sớm đã phát hiện thất phu nhân và tam tiểu thư bỗng dưng mất tích. A La đã hứa gả cho vương phủ, không tìm được người về, vương phủ cũng thấy mất mặt. Hai phủ hợp lực truy đuổi, bọn chúng chạy được bao xa?”.



Cả nhà nhìn nhau. Tứ phu nhân cười gượng: “Lão gia, vậy hôm nay…”.

Lý tướng dần dần bình tĩnh lại, biết là dù thế nào cũng không thể để lộ cho quan khách biết, danh tiếng của tướng phủ và mặt lão tướng không thể mất: “Hôm nay vẫn mở tiệc như thường, phải làm thật rầm rộ! Thanh Phỉ, con trang điểm cho thật đẹp, con cứ yên tâm làm tân nương. Đợi mấy ngày nữa, lão phu báo quan phủ, nói là thất phu nhân và tam tiểu thư tướng phủ đột nhiên mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả, nếu giấu không được thì nói thẳng là sẽ treo giải thưởng cao. Kẻ nào lộ ra, đừng trách lão phu nhẫn tâm! Phu nhân, gọi thị vệ đến thư phòng, ta có việc sai bảo”.

Lý tướng lập tức trở về thư phòng, cẩn thận viết liền mười bức thư, đưa cho thị vệ: “Giao tận tay các vị phủ doãn đại nhân, không được sơ suất! Cầm thủ lệnh của ta, lấy ngựa đi mau”. Lý tướng nghĩ, A La chỉ có thể đi về hai hướng tây và nam, nếu đi về tây phải qua bình nguyên, không thể chạy xa. Các phủ doãn nhận lệnh đều là môn sinh thân tín của ông, thư đã nói rõ là treo thưởng cao cho ai bí mật tìm kiếm, như vậy ba kẻ đó có thể chạy đi đâu? Điều ông ta suy nghĩ bây giờ là ăn nói ra sao với phủ An Thanh vương và trừng phạt thế nào khi bắt được bọn họ?

Lưu Giác nhận được tin cấp báo của tướng phủ, chàng giận run người. Thế nào là bỗng dưng mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả? Nghĩ lại lời nói hành động của A La, chàng khẳng định mười mươi tiểu nha đầu này đã chuẩn bị từ lâu, chắc chắn là bỏ trốn!

Chàng thành tâm thành ý với A La, không ngờ nàng lại âm thầm mưu tính, nhân ngày hôn lễ của nhị tỷ dẫn mẫu thân bỏ trốn, thoái hôn! Hổ thẹn thay cho chàng còn tưởng mình đang ngày càng gần gũi với nàng, càng hiểu nàng, đang làm cho nàng dần dần yêu mình. A La thoái hôn! Nàng không cần chàng! Lòng Lưu Giác đau thắt từng cơn. Phẫn nộ, không đành, thất vọng, đau đớn, muôn nỗi quay cuồng trong đầu. Lúc này chàng vô cùng hối hận, đã rút lại người theo dõi nàng, còn một lòng muốn chiều chuộng nàng, tôn trọng nàng!

Nụ cười tươi hớn hở trước mặt chàng chỉ là đối phó! Ngoan ngoãn dựa vào lòng chàng chỉ là giả tạo! Lưu Giác nhớ lại những lời A La đã hỏi chàng, nếu có ngày nàng phụ chàng thì sẽ thế nào, chàng nghiến răng nghĩ, đợi ta bắt được, nàng khắc biết! Nàng sẽ phải hối hận vì việc làm hôm nay! Hai bàn tay đấm mạnh vào bàn, chiếc bàn rung lên, một góc bàn bị nứt toác.

Lưu Anh nhìn chủ nhân, mặt cũng nghiêm trọng: “Chúa thượng, ba tổ Ô y kỵ sẵn sàng đợi lệnh”.

Lưu Giác sầm mặt nói: “Xích tổ đi về hướng tây, Minh tổ về hướng đông, Huyền tổ theo ta về phía nam. Lưu Anh, ngươi cầm thủ lệnh của ta đến gặp đốc phủ Phong thành, bảo phái lính trấn thủ tất cả ba cổng thành, lục soát kỹ Phong thành cho ta! Cáp tổ(*) truyền báo đến đội quân ngầm ém ở tất cả các thành trì của Ninh quốc bí mật tìm kiếm”.
(*)Cáp tổ: Đội truyền tin bằng chim bồ câu (BTV).
chương 14.3
Cánh cổng lớn của vương phủ mở ra, đội kỵ mã áo đen tức tốc truy đuổi về hướng nam. Lưu Giác đi đến cổng thành phía nam, mặt sa sầm nghe lính gác lắp bắp trình báo, sáng sớm vừa mở cổng thành đã thấy một tiểu công tử dáng vẻ thư sinh đánh xe ngựa ra khỏi thành. Lưu Giác hét: “Đuổi theo!”.

Lúc đó A La vừa đến cầu phao châm lửa. Dầu hỏa rưới trên mặt ván gỗ gặp lửa bùng cháy, lửa gặp gió bốc cao dữ dội, cầu phao trên mặt sông biến thành con rồng lửa khổng lồ.
Từ xa Lưu Giác nhìn thấy bóng dáng A La bên bờ kia, rồi thoáng thấy bóng ngựa đi về phía nam, lòng xúc động, bất chấp ngọn lửa lao xuống cầu phao, chưa được mấy bước đã bị lửa tạt buộc phải quay lại, chàng tức tối đấm vào thành cầu, mối cầu hình đầu sư tử bị đấm nát.
Binh sĩ của Huyền tổ soàn soạt xuống ngựa, tim đập chân run, đây là lần đầu tiên họ thấy chủ nhân của mình ra tay mạnh như vậy, chỉ thấy từng luồng khí từ người chàng bốc ra, gặp không khí như ngưng kết lại. Luồng khí từ cơ thể Lưu Giác bốc mạnh khiến y phục trên người chàng phồng lên, mặt chàng xám ngắt đáng sợ.
Các binh sĩ quỳ sụp trước mặt Lưu Giác: “Tiểu vương gia, biết Lý tiểu thư đi về hướng nam, chắc chắc không thể chạy thoát, ta ngăn cản dọc đường cũng thế”.
Lưu Giác chỉ thấy lòng đau thắt, bức bối, ngón tay run run, phẫn nộ cực điểm nhưng cổ họng lại phát ra tiếng cười. Binh sĩ nhìn nhau, thầm nghĩ, tam tiểu thư kia phen này xong rồi.
Chàng ngồi trên mình ngựa nhìn sang bờ bên kia, đáy mắt đã ngưng thành lớp băng lạnh, miệng lẩm bẩm: “A La, tốt nhất đừng để bị ta tóm được!”.
Tiếp đó chàng quay người nói nhỏ: “Lập tức điều thuyền, dựng lại cầu phao!”.
Trước cổng thành phía nam, người dồn lại đông nghẹt, tất cả ngơ ngác nhìn con rồng lửa trên mặt sông.
A La nhân lúc khói bụi mịt mù che lấp, lẳng lặng xuống nước, để lợi dụng lúc mọi người bận dập lửa, bắc lại cầu, tiến gần cầu phao, nàng ngậm một ống trúc dài để thở, từ từ bơi đến đoàn thuyền neo đậu phía bờ bên kia. A La mừng là mình bơi giỏi, có thể lặn dưới nước lặng lẽ chờ thuyền trong phường bơi ra. Sau khi chiếc thuyền đầu tiên chèo ra, nàng lặn dưới đáy thuyền bơi theo hướng ngược lại về phía đoàn thuyền. Khi chiếc thuyền thứ mười chèo ra, nàng đã vào bên trong đoàn thuyền, từ chỗ hở trên mặt nước giữa các thuyền neo đậu, nhô đầu ra.
Quả nhiên, người ta đã nhanh chóng lắp xong cầu mới. A La lập tức vọt lên mặt nước, cởi cái bọc bằng vải dầu trên lưng xuống, lấy quần áo mặc vào, vò rối mái tóc, bôi đen tay và mặt cho giống kẻ ăn mày, sau đó đường hoàng đi qua đoàn thuyền, lặng lẽ lọt vào trong thành.
Khi đội Ô y kỵ rầm rập xuất quân cũng là lúc Tử Ly nhận được tin báo. Tỳ nữ Tư Thi nhân lúc trong phủ rỗi việc đã đích thân chạy đến báo với chàng. Tử Ly mỉm cười, chàng cũng không tin có ai đó bí mật lẻn vào tướng phủ bắt ba người đi.
A La đâu có ngoan ngoãn bị gả đi như vậy, quả nhiên nàng có suy tính và dự định. Lúc này dường như Tử Ly mới hiểu ra, tại sao A La thích bạc như vậy. Chàng từ từ mở bức họa trong tay, nhìn đôi mắt đó, nhếch môi cười: “Tư Thi, ngươi làm rất tốt, bản vương không biết đôi mắt của vương phi lại không như thế này”.
Tư Thi quỳ phục trước chàng: “Tư Thi chỉ không hiểu vì sao tiểu vương gia phải vẽ bức khác, cho là bức cũ có ẩn ý, cho nên trong lúc mang đồ vào phủ mới bí mật đánh tráo bức họa”.
Tử Ly nói: “Chắc là tiểu vương gia lưu luyến đôi mắt này. Bức mới đâu?”.
“Nô tỳ thấy tiểu vương gia vẽ rất giống vương phi, nên nghĩ là chẳng có ích gì. Trong lúc mang đồ không tiện nên đã đốt rồi”.
“Ngươi làm rất tốt, bản vương nên hậu thưởng cho ngươi mới được”.
“Tư Thi không cầu ban thưởng, chỉ muốn được ở bên vương gia”.
“Ồ, ngươi vì ta thật lòng tình nguyện ở lại?”.
“Phải, dẫu có phải chết vì vương gia nô tì cũng cam lòng”.
Tử Ly ngoái đầu nhìn Tư Thi, quả đúng là thiếu nữ xinh đẹp trẻ trung. Chàng thở dài, nhẹ nhàng vung tay xỉa lên ngực nàng, cắt đứt huyết mạch tim. Tư Thi kinh hoàng gục xuống, môi còn mấp máy run run, như đang hỏi tại sao.
Tử Ly nói khẽ: “Ngươi tự cho là thông minh, đánh tráo bức tranh, nhưng lại không cho ta biết, đó là thứ nhất. Vô tình cảnh báo Lưu Giác ta đã bố trí tai mắt trong phủ của y, ngươi đã để lộ ý đồ của bản vương, đó là thứ hai”.
Mắt Tử Ly lộ vẻ đau đớn: “Ngươi mang bức cũ đến, lại khiến bản vương ngày đêm đau đớn phát điên, đó là thứ ba. Ngươi đi đi, ta sẽ hậu táng cho ngươi”.
Tử Ly giơ tay vuốt mắt cho nàng ta. Chàng ngơ ngẩn nhìn bức họa một lát, cuộn lại cất đi, rồi sai gia nhân: “An táng tử tế, mật báo cho cánh quân ngầm các nơi, nhất định phải tìm được tam tiểu thư trước Lưu Giác. Cẩn thận, không được làm nàng ấy bị thương”.


A La lén trở về nhà, lấy sáo thổi ám hiệu. Tiểu Ngọc vội vàng mở cửa, nàng mệt mỏi rã rời, mặt mũi nhem nhuốc, nhưng miệng cười tươi roi rói: “Xong rồi, thành công rồi, yên trí trốn ở đây, qua nửa năm sẽ dễ đi hơn”.
Ánh mặt trời gay gắt như loãng ra khi có luồng gió sông thổi đến, mồ hôi vừa vã trên người đám thủy binh lập tức bị gió thổi khô. Có binh sĩ vừa làm việc vừa tranh thủ liếc về phía mấy ngôi lều mới dựng vội bên cạnh cổng thành, lại bắt gặp đôi mắt lạnh như băng. Bất giác rùng mình, người nổi da gà. Phía trên một giọng cũng khẽ như thế hỏi: “Thế nào?”, binh sĩ cúi đầu khóa những sợi dây xích với nhau, nói nhỏ: “Làm đi! Tiểu vương gia của phủ An Thanh vương, hôm nay xem chừng muốn giết người”.
Khi dập tắt đám cháy, dựng xong cầu phao đã gần tới giờ Mùi, phía bờ kia vẫn còn hai chiếc thuyền chưa ghép hết, Lưu Giác đứng bật dậy, không nói không rằng, ra khỏi lều nhảy lên ngựa. Hai tổ khác của Ô y kỵ đã trở về phủ, Huyền tổ luôn ở bên Lưu Giác, thấy chủ nhân hành động đều nhất loạt nhảy lên ngựa đi theo. Lưu Giác một mình một ngựa dẫn đầu đi về phía bờ bên kia.
Chương 14.4
Qua cầu phao, chỉ có duy nhất một đường cái thông đến các trấn phía nam. Cách Phong thành gần nhất là trấn Thuận Hà, tiếp theo là Cốc thành. Ô y kỵ đi sát sau Lưu Giác, trên con đường cái buổi chiều vắng tanh chỉ nghe thấy tiếng võ ngựa nện gấp trên mặt đường. Vừa gặp con đường nhỏ, Ô y kỵ cử một người rẽ vào tìm kiếm.
Trên đường cái cách thành mười dặm có một quán trà, chủ quán là một cặp vợ chồng già tóc bạc trắng, nắng chiếu xiên, ông lão ngủ gật trên ghế. Đột nhiên nghe tiếng tiếng vó ngựa dồn dập, ông lão mở choàng mắt, một toán kỵ sĩ mình vận áo giáp mềm màu xanh sẫm, bịt mặt lao qua như cơn lốc, tiếng động vọng lại ầm ầm như sấm. Ông lão sợ hãi, người mềm nhũn, từ trên ghế trượt xuống đất. Phủi bụi trên người, ông chầm chậm đứng dậy, ngoảnh đầu lại loạng choạng quỳ sụp xuống. Một kỵ sĩ bịt mặt cố nén giọng nhẹ nhàng hỏi: “Ông lão, có nhìn thấy một tiểu công tử khôi ngô đánh xe ngựa qua đây không?”.
Ông lão há mồm, nhưng không nói ra được. Kỵ sĩ có vẻ sốt ruột, giọng nói đã có phần lạnh lùng hơn lúc trước: “Lúc sáng sớm, có một công tử khôi ngô đánh xe ngựa đi qua, lão có nhìn thấy không?”.
Ông lão lúc đó mới hoàn hồn, miệng lắp bắp: “Quán của tiểu… tiểu nhân giờ Thìn mới mở, không… không nhìn thấy”.
Kỵ sĩ không hỏi thêm, ném lại chuỗi tiền, vung roi, phi ngựa về hướng trấn Thuận Hà. Khi kỵ sĩ đã đi rất xa, ông lão mới run run hai tay nhặt những đồng tiền vung vãi trên mặt đất, thầm kêu lên: “Ôi chao! Hào phóng quá!”.
Lưu Giác phi thẳng một mạch đến cổng trấn Thuận Hà. Trấn này không lớn, chỉ có hai con đường. Chàng giơ tay ra hiệu, Ô y kỵ tản ra, chia nhau đi vào trong trấn, Lưu Giác cưỡi ngựa đứng ở cổng trấn, lia mắt quan sát xung quanh. Không lâu sau, Huyền tổ bẩm báo: “Người trong trấn không ai nhìn thấy tam tiểu thư, cũng không thấy cỗ xe ngựa nào đi qua”.
Con tuấn mã dường như cảm nhận được sự nóng ruột của chủ, liên tục giậm móng xuống mặt đường một cách bất an. Lưu Giác tính thời gian, có lẽ A La đã đến trấn Thuận Hà từ sáng sớm. Trấn này kẹp giữa hai ngọn núi cao, một con đường cái từ trấn thượng xuyên qua, không còn đường nào có thể đi vòng, ít có khả năng A La đưa mọi người vượt núi. Nếu bọn họ đi về phía nam, nhất định phải qua trấn Thuận Hà. Nhưng, bây giờ họ đi đâu? Đột nhiên phía sau chàng vang lên một tiếng nổ đanh gọn, trên bầu trời xuất hiện một đám khói màu xanh, tím đang dần tản ra. Đó là tín hiệu báo tin của các toán lính tìm kiếm. Mắt Lưu Giác lóe sáng, quay ngựa lao về phía đó.
Tiến vào khu rừng rậm, chàng nhìn thấy ngay cỗ xe ngựa. Các binh sĩ Huyền tổ quỳ sụp định bẩm báo, Lưu Giác đã đi xuyên qua bọn họ đi đến bên cỗ xe. Trong xe có mấy bộ quần áo vứt lung tung, chàng tiện tay cầm lên một chiếc, bỗng thấy có vết máu, lại nhìn xuống đất, trên đám cỏ cũng có vết máu. Chàng giật mình, đồng tử trong mắt co lại, cảm thấy có bàn tay nào đó lén bóp chặt trái tim. Mặt trắng bệch, người toát mồ hôi lạnh, y phục dính vào cơ thể.
Kỵ sĩ đầu tiên phát hiện ra cỗ xe nói: “Thật là thủ pháp inh, xung quanh không hề có dấu tích, tựa hồ người và ngựa biến mất từ chỗ này”.
“Quanh đây có thấy kẻ nào hành tung bất thường không?”.
“Trong ngọn núi to phía tây Thuận Hà có một ổ sơn tặc, nhưng rất ít khi cướp xe ngựa thông thường, thương nhân qua lại chỉ cần cho ít bạc, bọn họ tuyệt đối không làm hại ai”. Lưu Giác cười gằn: “Ngay gần Phong thành như vậy mà lại có bọn sơn tặc quấy nhiễu? Chuyện này không thể được!”. Chàng linh cảm thấy toán cướp này không đơn giản.
“Đám sơn tặc này rất lạ lùng, hình như có dây dưa với thái tử, cánh quân ngầm trong trấn của Cáp tổ báo tin, chúng thỉnh thoảng mới xuống núi cướp bóc, hầu như chỉ ẩn náu trong núi. Mà những đồ cướp được hoàn toàn không đủ nuôi một toán binh mã đông như vậy, có vẻ như cướp bóc chỉ là để ngụy trang”.
Lưu Giác nhìn ra hai hướng đông tây xa xa của trấn Thuận Hà, bụng nghĩ, trấn Thuận Hà này là cửa ngõ vào Phong thành, nếu chặn đứng con đường yết hầu này, có nghĩa là bóp nghẽn huyết mạch của Phong thành và các thành trì phía nam. Nếu thái tử bố trí điểm chốt này, thật là một nước cờ hay, “Toán sơn tặc này xuất hiện từ bao giờ?”.
“Sau tiết Trung thu năm ngoái”.
Sau tiết trung thu, có nghĩa là vào lúc thái tử kết thân với Vương gia. Nghe đồn thái tử phi mưu lược hơn người, lẽ nào nước cờ này là do Vương Yến Hồi sắp đặt? Chàng càng nghĩ càng kinh sợ, đột nhiên nhớ lại tiếng đàn của A La trong buổi đại yến ở Đông cung. Lẽ nào thái tử đã sớm bố trí tai mắt trong tướng phủ, bắt cóc A La? Lòng chàng như lửa đốt. Nếu phá sơn trại có nghĩa là gián tiếp giúp Tử Ly một việc lớn, đồng thời cũng phá vỡ bố trí của Đông cung, nếu không ra tay, sao chàng có thể yên tâm? Ánh mắt của Lưu Giác càng kiên định, môi hơi nhếch, nụ cười hiện ra, bọn chúng đã xưng là sơn tặc, thì ta sẽ coi bọn chúng là sơn tặc để xử lý. Nếu là ván cờ của Tử Ly, hôm nay ta cũng vẫn phá. “Trước giờ Tý tối nay, ta muốn sơn trại biến mất. Trừ hại cho dân, chia sẻ nỗi lo với vương thượng là bổn phận của thần tử chúng ta”.
“Chúa thượng yên tâm!”.





back top