Hậu Cung Chân Huyên Truyện

Quyển 4 - Chương 28: Gió vàng sương ngọc[1]

 

[1] Một câu thành ngữ tả cảnh mùa thu, thường được dùng để nói về khung cảnh gặp gỡ của những cặp nam nữ đang yêu – ND.

 

Khi y tới thì trời đã khuya lắm rồi, có điều biết y sẽ tới nên tôi vẫn để sẵn cửa chứ không đóng lại.

 

Tôi ngồi trong phòng, thắp một ngọn nến mà lẳng lặng vá áo. Chợt nghe một tiếng “két” từ phía cánh cửa bên ngoài, tôi biết là y đã tới, vội đứng dậy.

 

Hoán Bích sớm đã ra ngoài mở cửa, còn tươi cười cất tiếng giòn tan: “Vương gia tới rồi!”

 

Quả nhiên là y đã tới. Trên chiếc mũ đồng bó tóc của y dính một chút sương đêm, lấp lánh phát sáng, ngay cả ống tay áo và mép áo cũng đều ướt đẫm một mảng, chắc là đã quệt vào lá cỏ lúc đi đường. Vì ẩm ướt nên khi gió thổi tới, áo y không hề tung bay, có điều cũng vì thế mà nhìn dáng người y càng thêm rắn rỏi, vững chãi.

 

Tôi đi lấy một chiếc khăn tới đưa cho y, nói: “Huynh tự lau đi, lỡ như bị nhiễm phong hàn thì không hay chút nào.”

 

Y cầm lấy khăn tay tự lau chùi một chút, cười nói: “Xin lỗi, ta ở chỗ mẫu phi hơi lâu, khiến nàng muộn thế này rồi mà còn chưa thể đi ngủ.”

 

Tôi khẽ mỉm cười. “Muội trước giờ vẫn luôn ngủ muộn, huynh biết mà.”

 

Y nửa như lo lắng nửa như cảm khái: “Nàng vẫn bị mất ngủ sao? Thuốc lần trước uống thế nào rồi?”

 

Tôi lại lấy một chiếc khăn tay nữa tới, bảo y ngồi xuống, lau chỗ nước sương bám trên chiếc mũ đồng búi tóc của y, vừa lau vừa khẽ nói: “Thuốc đó tốt lắm, muội uống xong thì rất ít khi nằm mơ. Chỉ là muội không thích ngủ sớm thôi!” Nói xong, tôi lại mỉm cười. “Huynh chắc cũng tin vào y thuật của Ôn thái y chứ.”

 

Y khẽ gật đầu: “Tất nhiên”, sau đó lại nhìn tôi vẻ trìu mến, nói: “Không có việc gì thì ngủ sớm đi.”

 

Tôi nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc được búi lại gọn gàng của y, cười nói: “Hôm nay có thể tính là không có việc gì không?”

 

Đợi y chỉnh sửa lại quần áo xong xuôi, tôi mới nhìn kĩ. Độ này thời tiết nóng nực, y chỉ mặc một chiếc áo dài màu xám bạc may bằng the mỏng, nơi ống tay áo có thêu hai bông hoa nhỏ màu trắng, nếu không tỉ mỉ nhìn kĩ thì cơ hồ không thể nhìn ra được. Trông bộ dạng này của y hoàn toàn không có chút khí độ nào của một bậc thân vương mà hệt như một tay công tử nho nhã bình thường.

 

Tôi không khỏi thầm khen y tinh tế: “A Tấn nói huynh giả vờ say ra ngoài, lại vội vã chạy tới đây, không ngờ quần áo lại không hề có chút sơ hở nào như vậy, khi đi trên đường có ai ngờ huynh lại là hoàng thân quý tộc cơ chứ!”

 

Y cúi xuống nhìn rồi cũng bật cười một tiếng. “Trong Thanh Hà Vương phủ không thiếu loại quần áo bình thường thế này, chỉ là màu xám bạc này ấy mà…”

 

Lòng tôi hiểu rõ, vì tôi giờ sống ở thiền phòng, thường ngày chỉ mặc loại áo ni cô màu xám, do đó y mới cố ý chọn màu sắc này cho hợp với tôi.

 

Hoán Bích đứng bên cạnh khẽ cười một tiếng, chỉ tay vào ngọn nến dài trên chiếc bàn gỗ trước mặt, nói: “Hôm nay tiểu thư cố ý chọn cây nến dài nhất đó, đã đốt rất lâu rồi mới cháy hết một phần. Nô tỳ cứ ngỡ là vì tiểu thư định tới chỗ Thái phi nên quay về muộn, không ngờ lại là vì biết trước Vương gia sẽ tới.”

 

Y mỉm cười, giọng nói thoáng mang theo chút nghi hoặc: “Nàng biết là ta sẽ tới sao?”

 

Tôi chăm chú nhìn y, cười đáp: “Muội biết huynh có lẽ không thể tới được, nhưng trong lòng vẫn luôn nghĩ rằng huynh có thể sẽ tới. Còn về nến ấy mà, chẳng qua thắp để tối đến may vá hoặc là chép kinh văn thôi.”

 

Y không nói gì, chỉ đưa một bọc nho tới cho Hoán Bích, nói: “Đi rửa qua đi!” Hoán Bích vâng lời rời đi.

 

Y ghé tai tôi, nói khẽ: “Nàng cứ nghĩ, nghĩ mãi, mong rằng có thể gặp được ta trên đường, thế rồi ta liền tới, đúng vậy không?”

 

Dưới ánh nến đỏ lờ mờ, trông y dịu dàng mà tuấn tú, sắc mặt ngợp nét mừng vui. Tôi nhất thời ngơ ngẩn, quên cả việc đáp trả câu nói trêu chọc đó của y.

 

Y cũng không nói gì thêm, chỉ khẽ búng mũi tôi một cái, cười tủm tỉm, nói: “Mẫu phi nói nàng thích ăn nho, bảo ta mang cho nàng một ít.”

 

Tôi mỉm cười, liếc nhìn bóng dáng Hoán Bích bên ngoài. “Thái phi cứ nghĩ cho muội thế này, thực đã phải hao tâm tổn sức rồi!”

 

Y cười, nói: “Ta thấy mẫu phi thương nàng còn hơn cả thương ta ấy chứ!” Nói rồi lại kéo ống tay áo tôi lại. “Hôm nay dường như mẫu phi rất vui, nhất định là vì nàng đã tới đó cùng bà trò chuyện rồi.” Y chăm chú nhìn tôi, dịu dàng nói: “Cảm ơn nàng!”

 

Tôi cúi đầu lí nhí: “Huynh nói gì vậy, muội còn cần huynh cảm ơn sao?”

 

Y càng cười tươi hơn. “Thấy mẫu phi thích nàng như vậy, ta rất vui.”

 

Tôi chợt nghĩ tới một chuyện, khuôn mặt bất giác nóng bừng, vội hỏi: “Thái phi bảo huynh mang nho tới cho muội thế này, có phải là vì biết sau khi rời khỏi An Tê quán, huynh sẽ tới chỗ muội không vậy?”

 

Y cười, nói: “Tất nhiên rồi, chứ không ta còn có thể đi đâu được?”

 

Tôi lại càng thẹn thùng. “Như vậy đâu có tiện chứ, sau này muội không dám đến gặp Thái phi nữa mất thôi.”

 

Y xoay người tôi lại, chăm chú nhìn vào mắt tôi, nói: “Mẫu phi rõ ràng cũng hy vọng ta tới thăm nàng, vậy nên mới giao đồ cho ta. Ta là con trai của mẫu phi, bà tất nhiên hiểu lòng ta nhất rồi.”

 

Tôi cả thẹn, không kìm được bật cười khúc khích, vùi đầu vào lòng y.

 

Y khẽ hỏi tôi: “Nàng có buồn ngủ không?”

 

Tôi ngẩng lên nhìn y, mỉm cười nói: “Huynh muốn nghe lời thật lòng không?”

 

Y ngẩn người. “Tất nhiên là có rồi.”

 

Tôi đưa tay sờ cằm, cố ẩn đi nét cười trong mắt, cất giọng tinh nghịch: “Vừa rồi cơn buồn ngủ đã qua đi, bây giờ muội tỉnh như sáo ấy.”

 

Y tươi cười rạng rỡ, đưa bàn tay tới trước mặt tôi. “Vậy bây giờ chúng ta ra ngoài đi dạo một chút nhé, nàng thấy có được không?”

 

Tôi cũng nở nụ cười tươi, đặt tay mình vào giữa bàn tay y, hai người dắt tay nhau cùng bước ra ngoài.

 

Đi được gần nửa canh giờ, tôi vẫn chẳng biết y rốt cuộc muốn đưa tôi đi đâu, chỉ cảm thấy được y dắt tay, chậm rãi bước đi thế này, bất kể là đi tới đâu, lòng tôi cũng vô cùng vui vẻ.

 

Trên đường đi, y kỳ thực không hề yên phận,hông y có buộc một chiếc túi trong suốt làm bằng vải thưa, giữa không trung thỉnh thoảng lại có một con đom đóm lập lòe bay liệng, y liền nhanh tay bắt lấy, bỏ vào túi. Mắt y rất tinh, ra tay lại chuẩn xác, chẳng bao lâu sau đã bắt được khá nhiều đom đóm.

 

Tôi mỉm cười trách cứ: “Huynh tập trung đi đường đi, cứ như trẻ con vậy.”

 

Y không nói gì, vẫn tiếp tục vừa đi vừa bắt đom đóm.

 

Con đường núi uốn lượn dốc dần xuống, loáng cái chúng tôi đã tới bên dòng sông dưới chân núi. Nước sông chầm chậm chảy về đông, phát ra những tiếng rì rào nhè nhẹ, từng làn gió thổi tới khiến dãy cỏ bên bờ sông không ngừng đung đưa, khiến khung cảnh càng trở nên thanh bình và tịch mịch.

 

Tôi mỉm cười, nói: “Huynh muốn nghe hát sao? Giờ này A Nô đã ngủ từ lâu rồi, chẳng thèm để ý tới huynh đâu.”

 

Y kéo tôi lại gần, chỉ tay vào chiếc thuyền mà A Nô dùng để chở khách lúc ban ngày. “Chúng ta qua sông thôi.”

 

Tôi xua tay lia lịa. “Huynh điên rồi, nửa đêm thế này mà còn muốn qua sông.”

 

Y nói: “Ta sẽ làm người chèo thuyền.”

 

Tôi thấy y đang cao hứng, liền không chút nghĩ ngợi nói ngay: “Vậy được rồi.”

 

Hai chúng tôi nhảy lên thuyền, y khua mái chèo chậm rãi đưa thuyền tới giữa sông, động tác hết sức thuần thục. Tôi nhớ lại cảnh gặp y trên hồ Thái Dịch năm xưa, khung cảnh cũng giống thế này, y ngồi ở đầu thuyền khua mái chèo, còn tôi thì ngồi lặng lẽ giữa thuyền, bó hoa sen cuối cùng trong hồ Thái Dịch lẳng lặng tỏa hương, dường như tới giờ, hương thơm vẫn còn đọng nơi đầu mũi. Giữa làn nước rung rinh, vầng trăng dường như vẫn là vầng trăng độ nào, tôi ngồi trên thuyền của y, trái tim đập thình thịch. Chỉ là thời gian chưa khi nào ngừng trôi, tựa như dòng nước sông chảy mãi bên cạnh, giờ tôi đã có thể dắt tay y cùng bước rồi.

 

Nhớ lại ngày xưa, lòng tôi cũng tràn đầy cảm khái, chưa từng nghĩ lại có hôm nay.

 

Nhất thời tâm tình khoan khoái, tôi không kìm được vỗ tay làm nhịp cất tiếng hát vang: “Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…”

 

Đây chính là bài mà A Nô vẫn thường hát lúc chèo thuyền.

 

Huyền Thanh nghe thấy tôi hát, liền ngoảnh lại khẽ mỉm cười. “Hiếm khi được nghe nàng hát, thì ra nàng hát lại thế này.”

 

Tôi có chút thẹn thùng, cười nói: “Có gì đâu mà hay chứ, chẳng qua là ngày ngày nghe A Nô hát, có ngốc đến mấy cũng học được thôi.”

 

Y khẽ ngân nga: “Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang”, nói rồi liền nhìn tôi chăm chú.

 

Tôi không kìm được bật cười khúc khích. “Hình như huynh rất thích nghe bài dân ca này thì phải?”

 

Y nói: “Tất nhiên rồi, so với thơ từ, dân ca lại càng đi thẳng vào lòng người, không chút vòng vèo, có thể dễ dàng biểu đạt tâm trạng khoan khoái, vui vẻ của người ta.”

 

Tôi khẽ cười dịu dàng. “Tâm tư mỗi người đều quanh co khó đoán, nếu tất cả đều có thể thẳng thắn tỏ rõ nỗi lòng thì tốt biết bao.”

 

Bóng lưng cao lớn của y đổ xuống người tôi, dường như toàn bộ thân thể tôi đều bị bóng của y bao trùm. Trời đất dù có sáng tỏ đến mấy cũng không thể khiến tôi yên tâm bằng việc được bóng dáng của y trùm lên người như lúc này.

 

Tôi bất giác khẽ cười một tiếng, y, nói: “Động tác chèo thuyền của huynh thuần thục quá, lẽ nào là bởi huynh thường xuyên tới hồ Thái Dịch luyện tập?”

 

Y cười “phì” một tiếng, đáp: “Cho dù ta thường xuyên tới hồ Thái Dịch chèo thuyền, nàng nghĩ lần nào cũng có thể gặp được một nữ tử giả dạng làm cung nữ lén chạy ra ngoài như nàng sao?” Y nhìn tôi chăm chú. “Khi đó lá gan của nàng lớn thật, không ngờ lại dám lén chạy đi thăm Huệ Quý tần đang bị cấm túc.”

 

“My Trang tỷ tỷ sao? Không biết bây giờ tỷ ấy thế nào rồi?” Vừa nghĩ tới My Trang, trong lòng tôi liền trào dâng muôn vàn nỗi nhớ nhung.

 

Y nhìn tôi, cất lời an ủi: “Cô ấy rất khỏe, hôm nay ta vừa gặp cô ấy xong. Chỉ là cô ấy vẫn như trước đây, rất ít qua lại với người khác.”

 

Tôi nhớ đến lối xưng hô của y với My Trang vừa rồi, không kìm được hơi cau mày, hỏi với giọng nghi hoặc: “Huệ Quý tần?”

 

“Phải!” Y thoáng trầm ngâm rồi mới đáp: “Mùng Một tháng Bảy năm nay, tức là sáu ngày trước, vâng theo ý chỉ của Thái hậu, hoàng huynh đã thăng cho Thẩm My Trang làm Quý tần chính tam phẩm, cho phép dọn ra khỏi Sướng An cung tới làm chủ nhân Diễn Khánh cung, ngoài ra còn được xây riêng cho Tồn Cúc điện để ở.”

 

Nghe nói đây là ý chỉ của Thái hậu, lòng tôi hiểu rõ Thái hậu nhất định vẫn còn bảo bọc cho My Trang. Diễn Khánh cung là một trong những cung điện lớn nhất hậu cung, gần kề Sướng An cung mà My Trang trú ngụ trước đây, cũng chính là cung điện mà Kính Phi làm chủ, đương nhiên thuận tiện vô cùng. Nghĩ tới đây, lòng tôi nhẹ nhõm hẳn đi, sắc mặt cũng tràn ngập vẻ thư thái.

 

“Nhưng…” Huyền Thanh lại nói tiếp: “Huệ Quý tần đã từ chối.”

 

Tôi cả kinh, vội hỏi: “Tại sao? Là vì Hoàng hậu gây khó dễ? Hay là vì An Lăng Dung giở trò?”

 

Y chậm rãi lắc đầu. “Đều không phải. Là Huệ Quý tần tự mình từ chối. Cô ấy xin được đến ở tại Đường Lê cung.”

 

Đường Lê cung, tôi tột cùng chấn động, bởi đó chính là nơi ở của tôi trong Tử Áo Thành trước đây. Tôi lập tức hiểu ra, Đường Lê cung là nơi tôi bị giam lỏng, sau khi tôi bị đuổi ra khỏi cung, nó tất nhiên đã trở thành vùng đất không lành trong mắt các phi tần, không một ai chịu đến ở, ngay đến Huyền Lăng có lẽ cũng không muốn bước chân vào đó lấy nửa bước.

 

Tôi đã bị đuổi ra khỏi cung, phụng chỉ để tóc tu hành, đời này kiếp này tất nhiên phải chết già bên ngoài, không bao giờ được trở về nữa. Nếu không có gì thay đổi, cung điện mà tôi từng ở sớm muộn gì cũng sẽ được ban cho phi tần khác, thân là tỷ muội chí cốt của tôi, My Trang tất nhiên không đành lòng trơ mắt đứng nhìn, mà thà rằng tự mình đến đó ở.

 

Dù sao trong mấy năm sống ở Tử Áo Thành, Đường Lê cung cũng là chốn yên thân duy nhất của tôi.

 

Dường như Huyền Thanh cũng vô cùng cảm khái: “Huệ Quý tần không muốn trú tại Diễn Khánh cung đường hoàng, hoa lệ, mà lại xin tới Đường Lê cung bị tất cả mọi người trong cung coi là vùng đất không lành, chỉ e từ nay về sau ơn mưa móc sẽ càng ít ỏi.”

 

Tôi bất giác buột miệng hỏi: “Tỷ ấy làm như vậy, lẽ nào Thái hậu không ngăn cản sao?”

 

Y khẽ lắc đầu vẻ cảm thương. “Nàng và cô ấy giao hảo với nhau từ nhỏ, lẽ nào còn không rõ tính cách của cô ấy? Huống chi đám người Hoàng hậu và An thị đều mong cô ấy bị thất sủng, tất nhiên sẽ thuận nước dong thuyền.” Có lẽ vì tâm trạng nặng nề nên động tác chèo thuyền của Huyền Thanh bất giác chậm hẳn đi. “Theo ta thấy, chắc cô ấy có ý giữ Đường Lê cung thay nàng, sống một mình ở đó trong sự quạnh hiu.”

 

Lòng tôi xúc động vô cùng, thì ra My Trang cự tuyệt ý tốt của Huyền Lăng, muốn dọn tới Đường Lê cung là vì còn có thâm ý này. Đường Lê cung là nơi tôi gặp Huyền Lăng lần cuối, Huyền Lăng canh cánh trong lòng, tất nhiên sẽ không để cho sủng phi nào tới ở. Một khi có ai vào ở trong Đường Lê cung, Huyền Lăng ắt sẽ chẳng buồn ngó ngàng gì tới nàng ta nữa. Nói cách khác, phi tần nào tới Đường Lê cung cũng đồng nghĩa với việc bị Hoàng đế ghẻ lạnh, gần như chẳng còn cơ hội gặp được Hoàng đế nữa.

 

My Trang ơi là My Trang, không ngờ tỷ cũng đã quyết liệt với Huyền Lăng tới mức này rồi.

 

Nhưng cũng phải thôi, với tính cách của tỷ ấy, thà cô độc một mình trong cung chứ nhất định không chịu xin Huyền Lăng thương hại.

 

Tôi vừa cảm động lại vừa lo lắng, nghĩ tới việc My Trang đang tuổi xuân tươi đẹp như vậy mà lại phải ở trong Đường Lê cung u uất một mình, lòng tôi trào dâng muôn vàn cảm xúc đan xen, vô cùng bức bối. “Cuộc đời của My Trang thật có quá nhiều điều tiếc nuối.”

 

Huyền Thanh đưa tay khẽ vuốt ve bờ má tôi, cất giọng xót xa: “Nàng cảm thấy cuộc đời của cô ấy có chỗ nào đáng tiếc sao?”

 

Tôi suy nghĩ tới chỗ sâu xa, càng nghĩ lại càng khó chịu, thế nhưng trong sự khó chịu ấy cũng dần sinh ra một tia an ủi, khiến sắc mặt tôi bất giác nhẹ nhõm hẳn đi. “Nói thực lòng, so với việc tỷ ấy đắc sủng để rồi phải một mình nắm giữ đại cục, đối chọi với đám người Hoàng hậu, An thị và Quản thị, muội vẫn mong tỷ ấy có thể sống yên ổn trong Đường Lê cung, như vậy ít nhất cũng không lo lắng về tính mạng, có thể bình yên đến già.” Tôi đưa tay tới, nắm lấy bàn tay Huyền Thanh. “Tỷ ấy được Thái hậu bảo vệ, hơn nữa lại là người thất sủng, Hoàng hậu và các phi tần khác sẽ không hãm hại tỷ ấy đâu. Muội chỉ mong My Trang tỷ tỷ được bình an, không phải sống quá vất vả, chỉ vậy thôi.”

 

Lòng bàn tay Huyền Thanh rất ấm áp, sự ấm áp ấy len qua da thịt, truyền vào lòng tôi từng chút, khiến tôi dần bình tĩnh trở lại.

 

Gia tộc tôi phát sinh biến cố, tôi phải rời đi, mẹ con tôi phải ly tán, My Trang chưa chắc đã không muốn báo thù giúp tôi. Nhưng ở trong cung bây giờ, My Trang thế đơn lực bạc, khó có thể làm gì. Dù tỷ ấy có căm hận đến đâu đi nữa, có mong muốn đến đâu đi nữa, Thái hậu cũng sẽ không cho phép tỷ ấy làm gì vì tôi. Hẳn Thái hậu đã đáp ứng với tỷ ấy điều gì nên mới sai Phương Nhược mỗi tháng tới thăm tôi một lần, yêu cầu tôi dâng lên chỗ kinh văn chép được mỗi tháng, qua đó chứng tỏ tôi vẫn còn sống. Như vậy, My Trang có đắc sủng hay không thì có gì khác đây? Bởi lẽ điều mà lòng tôi mong mỏi chỉ là tỷ ấy có thể sống thật tốt, sống trong sự bình yên và thanh tịnh.

 

Tâm trạng tôi dần trở nên bình lặng, khi ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt quan tâm của y, trái tim tôi bất giác buông lỏng đi nhiều, toàn thân đều thư thái.

 

Thế nhưng, người mà tôi quan tâm không chỉ có My Trang. “Vậy…”

 

Y hiểu rõ tâm ý của tôi, bèn cười, nói: “Kính Phi vẫn khỏe, Lung Nguyệt cũng rất khỏe. Kính Phi coi Lung Nguyệt như con ruột của mình, Lung Nguyệt cũng rất quấn nàng ta, tình mẹ con giữa hai người sâu đậm lắm!”

 

Lòng tôi vô cùng vui vẻ, lúm đồng tiền trên má bất giác hiện ra. “Vậy thì tốt quá, Lung Nguyệt có sự bảo bọc của Kính Phi, muội cũng yên tâm rồi!”

 

Huyền Thanh trầm giọng nói: “Hiện giờ Kính Phi và Đoan Phi cùng hợp sức quản lý lục cung, Lung Nguyệt lại ngoan ngoãn, hiểu chuyện, Kính Phi gần như chưa từng rời xa nó. Hơn nữa…” Y cố ý nói với giọng nhấn mạnh: “Lung Nguyệt là công chúa chứ không phải hoàng tử, lại còn rất nhỏ.”

 

Tôi khẽ gật đầu, lòng xao động khôn nguôi, hai hàng lệ nóng chậm rãi tuôn trào, chảy đến khóe miệng cũng không hề có cảm giác đắng chát, mà chỉ thấy ngọt ngào. Huyền Thanh đã nói rất rõ ràng, Lung Nguyệt là công chúa, vĩnh viễn không thể uy hiếp tới địa vị của ai, mà Kính Phi lại có quyền quản lý lục cung, người khác ắt không dám tùy tiện trêu chọc nàng ta. Huống chi Kính Phi coi Lung Nguyệt như con đẻ, lúc nào cũng mang nó theo bên cạnh, có thể thấy Kính Phi đã hạ quyết tâm phải dốc hết sức mình bảo vệ nó.

 

Tôi thoáng do dự, cuối cùng vẫn hỏi: “Vậy phụ hoàng của nó…”

 

“Rất tốt.” Đôi mắt y lộ vẻ dịu dàng và thấu hiểu, tựa vầng trăng sáng trên trời, khiến người ta thầm cảm thấy yên tâm. “Có hai chữ Oản Oản đó, hoàng huynh và mẫu hậu tất nhiên đều coi nó như hòn ngọc trên tay, huống chi bản thân Lung Nguyệt vốn đã rất đáng yêu rồi.”

 

Nước mắt tôi vẫn lã chã tuôn rơi, y dịu dàng đưa tay lên lau giúp, nước mắt của tôi cứ thế thấm vào những đường vân nơi đầu ngón tay y, y nói: “Mọi người đều khỏe cả, nàng chỉ cần giữ gìn bản thân cho tốt là được.”

 

Tôi nhào vào lòng y, gật đầu một cách kiên định, cất giọng nghẹn ngào: “Muội biết, muội nhất định sẽ giữ gìn bản thân thật tốt, đó là vì huynh, cũng là vì tất cả những người mà muội yêu thương và nhung nhớ.”

 

Tôi ngẩng lên nhìn y, khẽ nói: “Thanh, cảm ơn huynh, cảm ơn huynh đã thường xuyên mang tin tức về Lung Nguyệt tới cho muội. Muội là người làm mẹ, kỳ thực đã nợ nó quá nhiều.”

 

Thanh dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, ôn tồn nói: “Nàng đã suy nghĩ cho Lung Nguyệt rất nhiều rồi, nó ở trong cung, sẽ được sống một cuộc sống rất tốt. Với tư cách một người mẹ, nàng đã dốc hết sức mình rồi.”

 

Dòng sông chảy dài miên man vô tận, tôi và y dừng thuyền trên sông, để mặc cho nó tự trôi. Tiếng chuông từ chùa Cam Lộ du dương vang lại, bay xa tới tận chân trời, lưu lại dư âm vương vất, mãi không tan. Bầu trời như trải dài bát ngát, vô số vì sao cùng soi bóng xuống dòng sông, mỗi vì sao như một viên kim cương lấp lánh, cùng tỏa sáng giữa những nhành cỏ nước rung rinh. Giữa khoảng không gian tịch mịch, con thuyền như đang trôi trên dòng sông Ngân rực rỡ, tựa hồ không có điểm dừng. Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, tôi lặng lẽ gối đầu lên đùi y. Vì đang để tóc tu hành, mái tóc dài của tôi tùy ý buông lơi, bên trên không có món đồ trang sức nào. Chiếc áo dài trên người y hẳn đã mặc được một thời gian, vậy nên mới mang tới cảm giác mềm mại và thoải mái như vậy, dính sát vào làn da tôi.

 

Mái tóc buông xõa của tôi liên tục bị gió thổi qua trước mắt, khiến tôi phải gạt ra hết lần này tới lần khác. Y khẽ nở nụ cười, giọng nói nghe như tiếng chuông gió tháng Ba từ ngoài hiên vẳng lại, vừa trong trẻo vừa vui tai: “Đêm xưa chẳng chải đầu, tóc xõa buông hai vai[2].”

 

[2] Trích Tử Dạ ca, nguyên văn Hán Việt: Túc tích bất sơ đầu, ti phát bị lưỡng kiên – ND.

 

Tôi hơi nghiêng đầu qua một bên, cất giọng du dương tiếp lời: “Gối tình lang tựa khẽ, nhìn sao thật đáng yêu[3].”

 

[3] Trích Tử Dạ ca, nguyên văn Hán Việt: Uyển thân lang tất thượng, hà xứ bất khả liên – ND.

 

Tôi ngẩng đầu nhìn y, khẽ cười “khì” một tiếng. Cằm y chắc vừa mới cạo râu, nhìn bóng loáng và ánh lên màu xanh biếc, tựa những tia sáng lờ mờ xuất hiện vào buổi sáng sớm khi mặt trời còn chưa mọc.

 

Y cất tiếng cười vang, lại ôm tôi vào lòng, những ngón tay nhẹ nhàng lướt trên mái tóc óng mượt của tôi, khẽ nói: “Chẳng trách các nữ tử trên đời đều coi trọng mái tóc của mình như vậy, tóc xanh đầy đầu cũng là nỗi tương tư khôn xiết.”

 

Tôi nhất thời nảy lòng nghịch ngợm, bèn giật mạnh một sợi tóc trước trán y. Vì quá bất ngờ, y kêu “úi chao” một tiếng, đau đớn cau mày lại. “Gì thế?”

 

Tôi bật cười đáp: “Vừa rồi không phải huynh nói tóc xanh đầy đầu cũng là nỗi tương tư khôn xiết sao? Thấy Thanh lang nhiều tóc như vậy, muội mới giúp huynh nhổ đi một sợi để bớt được chút phiền não vì nỗi tương tư, vậy không tốt ư?”

 

Y cất tiếng cười vang, đưa hai ngón tay lại nhéo mũi tôi một cái. Chiếc thuyền quá nhỏ, tôi không có chỗ nào để tránh, chỉ đành để y nhéo mũi cho xong. Y nói: “Ai bảo tương tư là phiền não chứ. Nàng có nhổ hết mái tóc này của ta, ta vẫn đối xử với nàng như trước thôi.”

 

Tôi khẽ phỉ phui một tiếng, nói: “Thực không biết xấu hổ gì hết!” Còn chưa nói xong thì đã bật cười, ngã vào lòng y. Ở trong lòng y, tôi luôn ngửi thấymùi hương thanh tân, thuần khiết, dường như là mùi hương của hoa đỗ nhược bên trong chiếc túi gấm thuở nào.

 

Y cởi chiếc túi vải thưa đeo bên hông ra, dốc hết đám đom đóm bên trong vào giữa hai bàn tay tôi, dịu dàng hỏi: “Có thích không?”

 

Những con đom đóm lập lòe phát ra ánh sáng màu xanh lam lành lạnh, như những vì sao đẹp đẽ. Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Đã có sao sáng đầy trời rồi, muội không dám nảy lòng tham thêm nữa.”

 

Tiếng nước chảy nghe róc rách bên tai, dịu dàng tựa lời tình nhân rủ rỉ. Tôi nhìn đến đắm say nhưng rốt cuộc vẫn thấy không đành lòng, liền buông tay thả hết lũ đom đóm ra, nhìn bọn chúng nhẹ nhàng bay lượn xung quanh mình.

 

Tôi thò bàn tay vào trong vạt áo trước ngực y, rất nhanh đã tìm được chiếc túi gấm nhỏ bé kia và lấy nó ra. Chiếc túi gấm trông vô cùng tinh xảo, phần miệng có mấy sợi dây tua màu bạc đính ngọc đồi mồi, dưới ánh trăng tỏa ra những tia sáng dìu dịu.

 

Tôi thầm nghĩ bao năm nay hẳn y vẫn giữ gìn cẩn thận nên chiếc túi gấm không cũ đi chút nào. Cẩn thận mở nó ra, tôi khẽ nói: “Đã là vật từ bao năm trước rồi, sao huynh vẫn mang nó bên mình như thế?”

 

Y nhìn chiếc túi gấm bằng ánh mắt dịu dàng và tha thiết, đáp: “Tuy nó đã cũ rồi nhưng mấy năm nay, nếu không có nó bầu bạn kề bên, chắc lòng ta không cách nào bình tĩnh được.” Trong chiếc túi gấm vẫn là mấy cánh hoa đỗ nhược như trước, tuy đã khô nhưng mùi thơm thì không hề giảm bớt, bên cạnh đó còn đặt bức tranh cắt hình tôi, y khẽ cất tiếng ngâm: “Người trong núi chừ, như đỗ nhược thơm[4], cũng chỉ có loài hoa đỗ nhược này mới xứng ở bên bức tranh cắt của nàng thôi.”

 

[4] Trích Sơn quỷ, Khuất Nguyên. Nguyên văn Hán Việt: Sơn trung nhân hề phương đỗ nhược – ND.

 

Ngón tay tôi nhẹ nhàng vuốt ve bức tranh cắt màu đỏ, đầu ngón tay như mang theo nỗi lưu luyến khôn nguôi. “Đây là muội của ngày xưa rồi!”

 

Bức tranh cắt này là chính tay Tiểu Doãn Tử cắt cho tôi trong đêm Giao thừa năm tôi mới vào cung, dùng để cầu phúc. Đôi tay hắn cực kỳ khéo léo, do đó tranh cắt sống động như thật.

 

Tôi chợt nghĩ tới một việc, không kìm được tò mò hỏi: “Có chuyện này muội vẫn luôn muốn hỏi huynh nhưng lần nào cũng quên mất… Bức tranh cắt này, rốt cuộc tại sao huynh lại có?” Nghĩ một chút tôi lại nói thêm: “Người muội gặp trong Ỷ Mai viên ngày đó không phải là huynh mà.”

 

Y khẽ gật đầu. “Tất nhiên không phải là ta”, rồi bèn chậm rãi kể: “Hôm đó hoàng huynh rời khỏi bữa tiệc đi tản bộ, đi tới Ỷ Mai viên thì ngẫu nhiên gặp nàng, ta không hề hay biết. Ta chỉ nhìn thấy huynh ấy lướt khướt rời đi, lại nghe nói là đi tới Ỷ Mai viên, do đó không yên tâm lắm, liền cùng Lý Trường tới đó xem thử.” Giọng của y hơi trầm thấp: “Hoa mai ở Ỷ Mai viên vốn nở đẹp nhất trong cung, năm xưa khi Thuần Nguyên Hoàng hậu vào cung, rất được hoàng huynh sủng ái, những loại hoa mai trân quý trong Ỷ Mai viên đều là do hoàng huynh cùng Thuần Nguyên Hoàng hậu chính tay trồng, để nàng ta có thể ngắm nhìn vào mùa đông. Cũng vì thế nên khi nghe nói hoàng huynh rời bữa tiệc đi Ỷ Mai viên, ta mới thấy không yên tâm, phải đích thân qua đó xem thử.”

 

Tôi cúi đầu cất lời cảm khái: “Nguồn cơn của biết bao việc, kỳ thực đều là từ Thuần Nguyên Hoàng hậu mà ra”, rồi lại gượng cười nói tiếp: “Thì ra ngay từ đầu, muội đã không tránh khỏi cái bóng của nàng ta.”

 

Y dịu dàng an ủi: “Thực ra nàng và nàng ta cũng không hẳn là quá giống nhau.”

 

Tôi khẽ gật đầu. “Huynh kể tiếp đi.”

 

“Khi ta tới Ỷ Mai viên, hoàng huynh đã trở ra rồi, còn dặn dò Lý Trường phải nhanh chóng đi tìm một cung nữ trong Ỷ Mai viên, ta nghe vậy liền biết nhất định là đã có chuyện. Khi đó, ta chẳng qua chỉ là nhất thời tò mò, thấy ý Trường đã đỡ hoàng huynh rời đi, ta liền vào Ỷ Mai viên xem thử. Ta nhớ lại việc hoàng huynh nói đã đứng nói chuyện với cung nữ đó cách một gốc cây, thế là bèn tìm tới chỗ hoa nở nhiều nhất, lại có dấu chân trên tuyết sâu nhất, sau đó liền phát hiện một bức tranh cắt được treo trên cành cây, ta đoán đó chắc là vật mà cung nữ đó để lại.”

 

Tôi che miệng khẽ cười. “Sao huynh lại biết ả cung nữ kia, cũng chính là Diệu Âm nương tử sau này, không phải là người trên bức tranh cắt? Huynh từng gặp Diệu Âm nương tử bao giờ chưa?”

 

“Gặp rồi.” Y khẽ cười một tiếng. “Ta vừa gặp đã biết ngay cô ta không phải người mà hoàng huynh muốn tìm.”

 

“Bức tranh cắt đó tuy sống động như thật nhưng dù sao cũng không phải người sống, không thể vừa nhìn đã nhận ra là ai được.”

 

Y khẽ gật đầu. “Tất nhiên rồi, ta cũng đâu thể dựa vào bức tranh cắt đó mà biết cô ta không phải là nàng”, sau đó lại hơi nhướng mày, lộ vẻ khá đắc ý. “Nàng có biết tại sao ta lại biết được không?”

 

Tôi cố ý làm bộ không để ý đến y. “Huynh muốn nói thì nói, không muốn nói muội cũng chẳng thèm nghe đâu.”

 

Y cười rộ. “Là vì dấu chân. Dấu chân mà ta nhìn thấy trên tuyết ngày đó nhỏ hơn so với chân của Diệu Âm nương tử nhiều. Vả lại, hoàng huynh từng kể với ta rằng cung nữ nói chuyện với huynh ấy biết một chút về thơ văn. Mà Diệu Âm nương tử xuất thân là cung nữ trồng hoa, dù có thế nào cũng không giống như kiểu người có thể nói ra câu thơ ‘nếu gió đông hiểu ý, xin đừng hại đến hoa’. Đã biết không phải là cô ta rồi, ta liền nảy ra chủ ý giấu bức tranh cắt này đi.”

 

“Tại sao lại phải giấu đi?”

 

“Diệu Âm nương tử về sau không ngừng tranh sủng, lại càng chứng thực phán đoán của ta. Nếu cô ta thật sự là cung nữ đã trò chuyện với hoàng huynh đêm đó, đáng lẽ phải có ý tránh né mới phải, cớ sao sau khi trở thành phi tần của hoàng huynh lại gây chuyện thị phi khắp nơi như thế? Qua đó đủ thấy cô ta không phải l cung nữ kia.” Y khẽ cười, nói: “Người trò chuyện với hoàng huynh đêm đó tự xưng là cung nữ trong Ỷ Mai viên, tuy chưa chắc đã đúng là vậy nhưng nhất định phải là nữ tử trong cung. Cô ấy tất nhiên biết việc Diệu Âm nương tử mạo danh mình, vậy mà lại chẳng nói gì cả. Ta bất giác cảm thấy thú vị, một người xem nhẹ vinh hoa phú quý, lại hiểu biết về thơ văn, nếu chỉ làm một cung nữ thôi thì thật quá đáng tiếc.”

 

Tôi không kìm được cười, nói: “Muội hiểu rồi, huynh cố tình giấu nhẹm việc này đi là mong có thể mang cô ấy về làm thiếp cho mình.”

 

Trong mắt Thanh ánh lên một nét cười rạng rỡ. “Ta không hề có ý nghĩ này. Ta chỉ cảm thấy, nếu có đủ khả năng thì mình nên cùng cô ấy làm một cặp tri kỷ về thơ từ ca phú, chứ cứ để cô ấy phải vất vả trong cung, có lẽ sẽ có một ngày cô ấy bước theo dấu chân của Diệu Âm nương tử, đi tranh giành sự sủng ái của hoàng huynh với các nữ tử khác, đã thế trong cung lại có Hoa Phi đè nén, như vậy cuộc sống của cô ấy sẽ vất vả vô cùng. Ta luôn thầm nghĩ, một nữ tử như vậy không nên bị mai một trong chốn hậu cung.”

 

Tôi nở một nụ cười chua chát, ngẩn ngơ ngoảnh đầu qua một bên. “Đáng tiếc, dù có trốn tránh thế nào, muội rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi vận mệnh của mình.”

 

Y nhớ lại chuyện xưa, cất giọng nhẹ nhàng: “Vì thế ngày đó nàng mới mất con, thất sủng, chịu đủ sự ghẻ lạnh. Nhưng rồi cuối cùng ta đã thấy nàng mặc một bộ đồ trắng xuất hiện trong Ỷ Mai viên cầu phúc cho hoàng huynh, cho dù mang mối hiềm nghi là cố ý, nhưng hoàng huynh ắt chẳng hề để tâm.”

 

Tôi cười hờ hững, nói: “Muội cứ ngỡ rằng lần đó y đã bị tình ý của muội làm cho cảm động, chẳng ngờ rốt cuộc vẫn là vì Thuần Nguyên Hoàng hậu.”

 

Y nói: “Muội chịu chấp nhận lấy lòng hoàng huynh, y tất nhiên hết sức vui mừng. Tuy nhiên trong có chút tâm cơ nho nhỏ nhưng y sẽ chỉ cảm thấy nàng đáng thương và đáng yêu, vả lại việc còn xảy ra trong Ỷ Mai viên, do đó sự đắc sủng của nàng về sau là điều hiển nhiên.”

 

Tôi lẳng lặng cúi đầu, chậm rãi nói: “Muội kỳ thực không hề biết gì về Ỷ Mai viên”, sau đó lại cười lạnh một tiếng, ngoảnh lại nói: “Thì ra ngay từ đầu tất cả đã là vì nàng ta rồi.”

 

Y khẽ gật đầu. “Ta biết chứ, chỉ là bây giờ việc này đã không còn quan trọng nữa rồi.” Thần sắc Huyền Thanh dần trở nên ảm đạm, tựa một bông tịch nhan ướt đẫm sương đêm, lại giống như vầng trăng non cong cong ở phía chân trời, đầy vẻ cô đơn, hiu quạnh. “Từ lần đầu tiên nhìn thấy nàng rửa chân bên dòng suối ở Thái Bình hành cung, nghe nàng ngâm câu thơ ‘đời người nếu dừng khi mới gặp, sợ chi vì gió bỏ quạt tròn’, lòng ta đã rõ, nàng nhất định chính là nữ tử trên bức tranh cắt đó. Tuy tranh không giống người thật nhưng ta lại có cảm giác đó nhất định chính là nàng. Chỉ đáng tiếc… khi ta gặp nàng lần đầu, nàng đã là Chân Uyển nghi đắc sủng nhất bên cạnh hoàng huynh rồi.”

 

Chân Uyển nghi, quả đúng là thế. Trong Thái Bình hành cung năm đó, tôi là uyển nghi tiểu chủ được Hoàng thượng sủng ái nhất.

 

Tôi thật lòng không muốn nhớ lại những việc có liên quan tới Huyền Lăng để rồi khiến bản thân không vui, bèn cười, nói: “Ngày đó huynh lỗ mãng quá chừng, thấy muội để chân trần mà không biết tránh đi, lại còn dám hỏi khuê danh của muội, thực là vô lễ.”

 

Y nắm lấy bàn tay tôi, có chút ngượng ngùng cười, nói: “Ngày đó đúng là ta đã có phần mạo muội, nhưng ở trong cung ta chưa từng thấy nữ tử nào dám để chân trần mà cất tiếng ngâm nga như nàng. Khi ấy ta quả thật rất muốn biết tên nàng, do đó tuy cảm thấy không ổn nhưng rốt cuộc vẫn cất tiếng hỏi.”

 

Tôi đưa tay khẽ cào vào má y, cất tiếng trêu chọc: “Đôi chân trần của nữ tử là thứ quý báu nhất, phải tới đêm động phòng hoa chúc mới có thể cho phu quân của mình nhìn thấy, huynh đúng là đã được một món hời rồi. Mà hỏi tên cũng là một nghi lễ quan trọng trong quá trình thành hôn, sao huynh có thể tùy tiện hỏi như thế chứ?”

 

Y cười rộ một tiếng rồi ôm tôi vào lòng. “Nghĩ lại mới thấy đúng là thế thật, nhưng qua đó cũng đủ để thấy duyên phận giữa ta và nàng sớm đã được định sẵn rồi, nếu không sao ta lại hỏi những lời như thế và bây giờ nàng lại ở bên cạnh ta chứ?”

 

Tôi vô cùng thẹn thùng, phỉ phui nói: “Sao muội lại quen một người như huynh chứ, thật là xui xẻo quá đi!”

 

Y không đáp lại lời tôi, chỉ nói: “Ta vốn định khi tìm thấy người cung nữ đó sẽ tự tay trả lại bức tranh cắt cho nàng ta, nhưng kể từ khi gặp nàng, ta liền biết rằng bức tranh cắt ấy, ta sẽ mãi mãi không bao giờ chịu trả lại nữa.”

 

Tôi hiểu được dụng tâm của y, bèn thấp giọng nói: “Muội biết, vì muội là người của Hoàng đế nên huynh chỉ có thể giữ lại bức tranh cắt ấy mà thôi.”

 

“Trong những tháng ngày đứng nhìn nàng từ xa thuở nào, bức tranh cắt ấy quả thực là thứ duy nhất mà ta có.” Y khẽ gật đầu, trong niềm thương cảm miên man toát ra một nỗi mừng vui mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra. “Ta cứ luôn nghĩ rằng, cả cuộc đời này, thứ mà ta có thể giữ lại được chỉ có duy nhất bức tranh cắt ấy mà thôi.”

 

Tôi đặt bàn tay mình vào giữa lòng bàn tay y, cảm nhận sự ấm áp từ lòng bàn tay y truyền lại, khẽ nói: “Sẽ không đâu.” Y khẽ “ừm” một tiếng, tôi lại nói: “Khi ở trong cung, muội đã coi huynh như tri kỷ. Chỉ là, muội sợ phải đối mặt với tình cảm thật của mình.”

 

“Vậy bây giờ muội còn sợ nữa không?”

 

Bờ vai y vững chãi mà rắn rỏi, tôi tựa mình vào đó, nghe tiếng tim đập đều đều của y, cất giọng kiên định: “Chỉ cần có huynh ở bên, muội không sợ gì hết.”

 

Ánh mắt y có một sức mạnh nào đó khiến người ta cảm thấy yên tâm, tôi có thể nhìn thấy rõ ràng bóng dáng của bản thân trong mắt y, những ngôi sao trên trời dù có sáng đến mấy cũng không thể sáng hơn cặp mắt y được.

 

Những con đom đóm bay lượn vòng quanh, đẹp đẽ tựa sao trên trời. Tôi hơi nghiêng đầu qua một bên, nụ hôn của y mang theo làn hơi thở ấm áp tràn tới, nhanh chóng bao bọc lấy tâm hồn tôi.

back top