Hậu Cung Chân Huyên Truyện

Quyển 5 - Chương 5: Như ý nương

 

Sau khi Huyền Lăng rời đi, trái tim tôi mới hoàn toàn buông lỏng. Cận Tịch và Hoán Bích hay tin thì đều mừng rỡ vô cùng. Hoán Bích rơm rớm nước mắt, nói: “Để có được ngày hôm nay thật chẳng dễ dàng gì. Vốn ngỡ sau khi về cung, chỉ cần có một chỗ đặt chân đã là quá tốt, không ngờ Hoàng thượng lại muốn phong tiểu thư làm phi, còn định đón tiểu thư về một cách phong quang như vậy nữa.”

 

Cận Tịch thì chín chắn hơn một chút, nói: “Về cung mới chỉ là khởi đầu thôi, con đường sau này còn gian nan lắm, nương nương phải có sự chuẩn bị mới được. Nếu Hoàng hậu và An thị biết nương nương sắp về cung, nhất định sẽ không chịu để yên đâu.”

 

Tôi thoáng lộ vẻ trầm ngâm. “Hoàng thượng đã hạ quyết tâm đón ta về rồi, Hoàng hậu khó có thể ngăn cản. Nhưng chỉ sợ nàng ta lại giở trò thuận nước dong thuyền, bày sẵn cạm bẫy, với quyền thế cùa nàng ta trong cung mà muốn đối phó với ta, sau khi quay về ta muốn ứng phó e là không dễ chút nào.”

 

Cận Tịch mỉm cười, nói: “Hiện giờ toàn bộ tâm tư của Hoàng hậu đều đặt trên người Từ Tiệp dư, nương nương đột ngột quay về như thế, nàng ta hẳn sẽ trở tay không kịp.”

 

Hoán Bích nghiến răng cười lạnh, cất giọng sắc bén: “Nô tỳ nghe nói, mấy năm nay ở trong cung, không một ai có thể đối đầu với nàng ta, nàng ta coi như cũng đắc ý đủ rồi. Nhưng sắp tới dù nàng ta có muốn giở trò gì thì cũng vô ích thôi, tiểu thư về cung với ngôi phi chính nhị phẩm, chỉ vài tháng nữa sinh nở xong là sẽ được thăng lên làm phu nhân tòng nhất phẩm. Tiểu thư muốn đấu với nàng ta, chưa chắc đã không có vốn liếng gì.” Hoán Bích nắm lấy bàn tay tôi, cất giọng kiên định: “Chỉ mong sau khi được vinh hoa phú quý, tiểu thư ngàn vạn lần đừng quên đi mối hận của chúng ta.”

 

Lòng tôi vững như bàn thạch, lạnh lùng nói: “Ta tất nhiên sẽ không quên, lần này ta về cung đâu phải là vì bản thân mình.”

 

Cận Tịch khẽ nở nụ cười, ôn tồn nói: “Chúng ta cứ bước dần từng bước thôi, con đường sau này còn dài lắm.”

 

Đương lúc nói chuyện, Tích Vân chợt đẩy cửa chạy vào, nghẹn ngào nói: “Nương tử, không hay rồi! Thái phi…”

 

Thị còn chưa nói xong, tôi đã biến hẳn sắc mặt, vội vàng đứng dậy nói: “Ta lập tức đi thăm Thái phi.”

 

Trong An Tê quán tối om, không đèn đuốc, tôi chạy từ bên ngoài vào, đôi mắt nhất thời còn chưa thể thích ứng với sự u ám xung quanh, có cảm giác bản thân như trở thành một người mù vậy. Đợi sau khi thích ứng rồi, tôi nhìn thấy Thư Quý thái phi đang nằm trên chiếc giường ở phòng trong, sắc mặt tái nhợt, hai bờ má hóp lại, tựa một bông hoa sắp tàn.

 

Trên đường tới đây, mí mắt tôi đã bị nước mưa làm ướt, toàn thân cũng đều mang theo hơi ẩm của cơn mưa phùn mùa xuân, nhìn thấy cảnh này thì không kìm được mà rơi lệ, vội ngồi sụp xuống cạnh giường của Thái phi.

 

Tích Vân khóc nức nở, nói: “Sau khi biết tin về cái chết của Vương gia, Thái phi đã ba ngày liền không ăn không uống, có khuyên thế nào cũng không được, ta thấy Thái phi đã ôm lòng muốn tìm cái chết rồi.” Dứt lời, nước mắt thị lại tuôn rơi dào dạt.

 

Tôi cố ngăn dòng nước mắt, ngẩng lên nói: “Cô cô xin hãy tạm ra ngoài một lát, ta có mấy lời muốn nói với Thái phi.”

 

Tích Vân y lời rời khỏi phòng và đóng cửa lại, lúc này ngoài cửa sổ mưa vẫn đang rơi, Thái phi bị nước mưa hắt vào làm ướt mất một nửa người, nhưng dường như lại chẳng hề phát giác, cặp mắt trống rỗng nhìn về hướng chân trời.

 

Tôi đứng dậy đóng cửa sổ lại, cất giọng thê lương: “Người chết thì đã chết rồi, lẽ nào người sống lại phải đi theo người chết hay sao? Thái phi, con cũng nào phải không muốn đi theo Thanh, đi theo y là mọi chuyện đều xong cả, chẳng còn nỗi phiền não gì nữa.”

 

Một cơn gió lạnh chợt len qua khe cửa sổ thổi vào, khiến bức rèm đang buông nhẹ nhàng lay động, khắp gian phòng sau nháy mắt đã ngợp đầy mùi hương của cỏ cây, bùn đất bên ngoài.

 

Thái phi vẫn nằm yên ở đó chẳng hề động đậy, dường như linh hồn bà sớm đã rời khỏi cái thân xác này rồi.

 

Tôi lặng yên ngồi xuống bên giường của Thái phi, nói: “Thanh gần như là tính mạng của Thái phi, Thái phi chỉ có duy nhất một đứa con, huynh ấy chết đi, người tất nhiên sẽ thương tâm tột độ. Nhưng Thái phi chỉ cần con mà không quan tâm đến cháu mình ư? Đứa bé trong bụng con còn đang chờ để gọi Thái phi một tiếng ‘bà nội’ đây. Nó đã không có cha rồi, chẳng lẽ Thái phi cũng muốn bỏ nó mà đi nữa hay sao?”

 

Thư Quý thái phi nghe thế, thân thể bất giác hơi chấn động, nơi khóe mắt có một dòng nước mắt rỉ ra. Bà ngồi dậy với khuôn mặt chẳng có chút biểu cảm nào, tựa như một u hồn trong bóng tối. Bà lúc này đã hoàn toàn suy sụp, vẻ đẹp ngày xưa chẳng còn sót lại chút nào, khí chất dịu dàng như tiên tử cũng đã bị nước mưa lạnh băng xối đi mất, chỉ còn lại nỗi đớn đau và tuyệt vọng của một người mẹ vừa mất đi đứa con duy nhất của mình.

 

Bà thoáng ngẩn ngơ, đột nhiên cất tiếng gào lớn: “Thanh Nhi! Thanh Nhi!”, sau đó lại khóc nức nở một hồi, vừa khóc vừa nói: “Tiên đế! Chúng ta chỉ có một đứa con này thôi, vậy mà thần thiếp lại không thể bảo vệ được nó! Giờ đây… Giờ đây không ngờ lại phải người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh!” Tôi thấy Thái phi thương tâm xé lòng như vậy, vội vàng bước tới đỡ. Thái phi bám lấy vai tôi, khóc lóc đau khổ nói: “Hoàn Nhi, Thanh Nhi đã bỏ lại con mà đi rồi, để lại mình con cô độc trên đời này, ngoài việc nhớ về nó ra thì chẳng có cách nào hết! Ta đã phải chịu nỗi đau mất chồng xiết bao đau đớn, tại sao bây giờ ngay đến con ta cũng rời ta mà đi? Hoàn Nhi, thực khổ cho con, còn trẻ như thế đã phải chịu đựng nỗi đau mất đi người mà mình thương yêu nhất!”

 

Tiếng khóc của Thái phi như những nhát búa nặng nề gõ vào trái tim tôi. Lòng tôi như mềm lại, những giọt nước mắt vốn cố kìm nén nãy giờ lại một lần nữa tuôn rơi, tôi gục đầu vào đầu gối Thái phi mà bật khóc nức nở, khóc đến khàn cả giọng, khóc đến tan nát ruột gan.

 

Đã lâu lắm rồi tôi không được khóc một phen đã đời như thế, suốt thời gian vừa rồi tôi chỉ có thể kìm nén bản thân, chỉ có thể gượng nở nụ cười trước mặt người đó, mọi thứ tình cảm thật đành phải chôn sâu xuống đáy lòng.

 

Khóc lóc hồi lâu, chúng tôi dần bình tĩnh trở lại. Tôi khẽ nói: “Thái phi, lần này con tới đây thứ nhất là để an ủi Thái phi, thứ hai là để nói lời cáo biệt. Sau này e là con không thể tới An Tê quán thăm người được nữa rồi.”

 

Thái phi hết sức ngạc nhiên, không kìm được bật thốt: “Tại sao?”

 

Tôi hít một hơi thật sâu, chậm rãi cất tiế: “Hoàng thượng có ý muốn đón con về cung hầu hạ, con đã đồng ý rồi.”

 

Sắc mặt Thái phi lạnh lẽo hẳn đi, kế đó mới dần dịu lại: “Con muốn về cung cũng chẳng sao, dù sao ý của Hoàng thượng con cũng không thể làm trái được. Chỉ là đứa bé trong bụng con…”

 

Tôi bình tĩnh nói: “Hoàng thượng cho rằng đứa bé này là của y, do đó mới nhất quyết muốn đón con về cung.” Thái phi biến hẳn sắc mặt, cơ hồ không thể tin nổi, khuôn mặt bất giác tái nhợt. “Thanh Nhi và con yêu nhau thắm thiết, bây giờ tro cốt nó hãy còn chưa nguội, vậy mà con đã muốn theo Hoàng thượng về cung. Đương nhiên việc này ta cũng không thể trách con được.” Bà nhìn đăm đăm vào bụng tôi. “Nhưng đứa bé trong bụng con là của Thanh Nhi, sao con có thể dùng nó làm vốn liếng để về cung, rồi còn bắt nó phải nhận Hoàng thượng làm phụ thân như thế chứ?”

 

Căn phòng hơi u ám, chỉ có một ngọn nến nhỏ vừa được thắp lên đang tỏa ra những tia sáng lờ mờ. Đang lúc mưa xuân, bầu không khí cũng theo đó mà trở nên lạnh giá. Tôi cố kìm nén nỗi chua xót, chậm rãi nói: “Thái phi có biết không? Thanh chết không phải do tai nạn ngoài ý muốn, mà vì bị người ta hãm hại. Con thuyền huynh ấy ngồi đã bị động chân động tay, do đó huynh ấy mới phải mất mạng trên sông Đằng Sa. Thanh chết không nhắm mắt, sao con có thể hồ đồ đi tuẫn tình, bỏ mặc mối thù của huynh ấy không báo. Kẻ hại chết huynh ấy bất luận là người Hách Hách hay loạn dân Điền Nam, dùng sức một mình con thì không cách nào báo thù được.” Tôi đưa tay khẽ xoa bụng mình. “Nếu con muốn yên ổn sống tiếp trên đỉnh Lăng Vân, nhất định phải bỏ đứa bé này đi; nếu con muốn giữ lại đứa bé này, vậy thì chỉ còn cách mai danh ẩn tích sống một cuộc đời bình lặng nơi thôn dã. Nhưng con vừa phải bảo vệ đứa bé này, vừa phải báo thù cho Thanh, lại vừa phải bảo vệ cha mẹ và huynh trưởng của con nữa… Thái phi có biết không? Ca ca con bị lưu đày ở Lĩnh Nam bốn năm, gần đây còn bị người ta hại đến nỗi thần trí thất thường, con không thể bỏ mặc huynh ấy được. Mà muốn làm được những việc này, con chỉ còn cách trở về bên cạnh Hoàng thượng thôi. Thái phi, sống có lúc còn khổ hơn là chết, nhưng dù khổ đến mấy cũng phải cố gắng chịu đựng.” Tôi cảm thấy cả thể xác và tinh thần đều mỏi mệt, dường như có một bàn tay đang thò vào trong thân thể tôi mà bới móc không ngừng, khiến thân thể tôi trở nên hoàn toàn trống rỗng.

 

Những giọt nước mắt nóng bỏng tuôn rơi lã chã, Thái phi đưa tay tới nắm lấy tay tôi, nghẹn ngào nói: “Con ngoan, là mẫu phi đã trách nhầm con rồi! Ta không biết con vì Thanh Nhi mà phải chịu đựng nỗi khổ như vậy. Cuộc sống trong cung vất vả đến thế nào, cả con và ta đều hiểu rõ. Thanh Nhi cứ như vậy mà đi… Con vì muốn tìm lại công đạo cho nó, vì muốn duy trì dòng máu của nó… Thật sự đã khổ cho con rồi.”

 

Tôi buồn thương rơi lệ, kéo tay Thái phi lại khẩn cầu: “Con phải chịu khổ thế nào cũng chẳng sao, chỉ cần Thái phi chú ý giữ gìn thân thể là được. Nếu Thanh biết Thái phi tự giày vò bản thân thế này, dù đã xuống dưới suối vàng cũng khó mà yên nghỉ được. Đứa bé này con nhất định sẽ sinh ra. Hoàng thượng đã có Hoàng trưởng tử rồi, sau này nếu có cơ hội, con sẽ tìm cách để nó trở thành con thừa tự của Thanh, nối dài dòng dõi Thanh Hà Vương. Thái phi còn có một đứa cháu như vậy trên đời, lẽ nào vẫn muốn bỏ mặc nó không thèm quan tâm tới hay sao?”

 

Trên khuôn mặt Thái phi rốt cuộc đã xuất hiện một tia ý chí cầu sinh, bà nhìn tôi khẽ nói: “Con ngoan, con vì Thanh mà phải ép dạ cầu toàn, nhẫn nhục chịu đựng như vậy, ta là mẫu phi há lại có thể buông xuôi đi tìm cái chết hay sao? Dù ta chẳng thể giúp đỡ được gì nhưng ít nhất cũng có thể ngày ngày niệm kinh cầu khấn cho con.”

 

Tôi bảo Tích Vân bưng một bát canh sâm vào, cẩn thận bón cho Thái phi từng thìa. “Thái phi đã mấy ngày liền không ăn gì rồi, hãy tạm uống một chút canh sâm cho lại sức đã.”

 

Uống xong mấy thìa canh sâm, khí sắc của Thái phi có vẻ đã tốt hơn một chút, bà thở nhẹ vài hơi rồi mới nói: “Con muốn bảo vệ bản thân, cái thai trong bụng và cha mẹ, huynh muội của con, vào cung tranh sủng quả thực là con đường duy nhất. Có điều, chỉ có sự sủng ái của Hoàng thượng thôi thì còn xa mới đủ. Con từng một lần bị đuổi khỏi cung, tất nhiên hiểu rõ hơn bất cứ ai rằng vị Hoàng đế bây giờ khác xa với tiên đế, sự sủng ái của y căn bản không đáng tin chút nào… Muốn bảo vệ được những người mà con muốn bảo vệ, muốn có được những gì mà con muốn có, chỉ có duy nhất một cách là nắm chặt lấy quyền lực chí cao trong thiên hạ vào tay thôi.”

 

Tôi thầm kinh hãi, bật thốt lên: “Quyền lực chí cao trong thiên hạ?”

 

“Đúng vậy.” Thái phi dần trở nên bình tĩnh, dường như đang đắm chìm vào dòng hồi ức xa xăm. “Sau khi tiên đế qua đời, ta đã xin rời cung tu hành, nhưng kỳ thực không phải ý ta muốn vậy mà là vì tình thế bức ép không thể không làm vậy. Khi đó, Nhiếp chính vương ủng hộ Tứ Hoàng từ, cũng chính là đương kim Hoàng thượng hiện nay, lên ngôi kế vị, Lâm Phi cũng theo đó mà trở thành Thái hậu, quyền lực trong cung hoàn toàn rơi vào tay bà ta. Nếu ta không tự nguyện xin rời cung tu hành, vứt bỏ tất cả mọi thứ trong cung, đổi lấy việc nhờ cậy bà ta nuôi dưỡng Thanh Nhi, sợ rằng Thanh Nhi sớm đã chẳng thể sống được đến bây giờ.”

 

Tôi tỏ vẻ nghi hoặc. “Thái phi làm sao mà đảm bảo được Thái hậu sẽ đối xử tốt với Thanh? Nhỡ bà ta ngấm ngầm hạ độc thủ…”

 

Thái phi khẽ lắc đầu. “Khi đó ta thật quá ngu ngốc, mãi đến cuối cùng mới biết được, bà ta bề ngoài tình tuy như tỷ muội với ta nhưng trong lòng kỳ thực hận ta vô cùng. Vậy nên sau khi con của bà ta trở thành Hoàng đế, ta không thể không rời khỏi hậu cung, bởi chỉ như thế bà ta mới không làm khó Thanh Nhi quá. Khi rời cung, ta từng đứng trước mặt mấy trăm phi tần và quan lại trong triều, yêu cầu Chu thị lập lời thề phải đối tốt với Thanh Nhi, như vậy ta mới chịu rời cung, sau này không đặt chân ra ngoài An Tê quán nửa bước.” Thư Quý thái phi rơm rớm nước mắt, thở dài. “Sau khi trưởng thành, Thanh Nhi không thể không ẩn giấu tài năng, làm bộ chơi bời lêu lổng để xóa bỏ lòng nghi ngờ của mẹ con Chu thị. Kỳ thực trong lòng nó cũng có rất nhiều hùng tâm tráng chí của đấng nam nhi, chỉ tiếc là đã bị ta làm liên lụy.” Thái phi hơi định thần lại, trong mắt như bừng lên một ngọn lửa sáng rực. “Trong thời Long Khánh, ta từng độc sủng, chiếm hết phong quang, vậy nhưng lại chưa từng dính dáng gì đến quyền lực, do đó cuối cùng mới phải để mặc cho người ta ức hiếp, chẳng có sức chống cự. Hoàn Nhi, ta mất cả đời mới hiểu được, sự sủng ái của bậc đế vương không hề đáng tin, thứ quan trọng nhất vẫn là quyền lực. Ta xuất thân Bãi Di, tất nhiên không thể đụng tới quyền lực của Đại Chu, nhưng con thì khác!”

 

Tôi lặng im suy nghĩ, chợt nhớ tới cảnh giang sơn như vẽ mà mình từng nhìn thấy dưới vầng mặt trời đỏ rực ở Thượng Kinh độ nào. Đó chính là thiên hạ mà bất cứ nam tử nào trên thế gian này cũng muốn nắm vào tay.

 

Thư Quý thái phi nhìn tôi bằng ánh mắt xót xa. “Giờ con đã có thai, sau khi về kinh nhất định sẽ bị nhiều người ghen ghét, nguy hiểm vô cùng. Người khác thế nào ta không biết, nhưng con nhất định phải cẩn thận với Thái hậu, ngàn vạn lần đừng sơ suất chút nào.”

 

“Thái hậu… kỳ thực cũng khá thương con.”

 

Thư Quý thái phi hơi cau mày, lát sau liền thở phào một hơi. “Bà ta chịu thương con thì tốt.” Dừng một chút, bà lại tiếp: “Con người này tâm cơ thâm trầm khó đoán, thủ đoạn lợi hại vô cùng, ngay cả với người mình yêu mà cùng có thể nhẫn tâm hạ sát, thực khiến người ta kinh sợ. Nhớ lại năm xưa… bà ta với ta còn thân nhau hơn tỷ muội ruột thịt nữa kìa.”

 

Thân nhau hơn tỷ muội ruột thịt? Nghe thấy câu này, lòng tôi bất giác thầm lạnh lẽo, có cảm giác như bị người ta cho mấy cái bạt tai thật mạnh, trước mắt nổi đầy trăng sao, cảm thấy đớn đau và nhục nhã vô cùng.

 

Tôi trầm ngâm suy nghĩ, lời của Thư Quý thái phi khiến tôi chợt nhớ lại một việc đã xảy ra từ rất lâu trước đây, không kìm được cất tiếng hỏi: “Con từng vô ý nghe được một cuộc trò chuyện của Thái hậu với thị tỳ hầu cận Tôn cô cô, hình như… Thái hậu và Nhiếp chính vương.”

 

Ngoài cửa sổ, mưa vẫn rơi rả rích, Thư Quý thái phi mím chặt đôi môi, hồi lâu sau cả hai bờ môi đều đã trở nên trắng bệch, rồi bà mới chậm rãi nói ra một câu: “Chu Thành Bích… Bà ta và Nhiếp chính vương quả thực có tư tình!”

 

Đầu tôi bỗng trở nên tê rần, trên lớp da đầu tựa như có vô số con sâu nhỏ màu đen bò đi bò lại, khiến tôi sợ hãi đến nỗi lông tơ dựng đứng, không dám nhúc nhích. Nếu sự thực đúng như lời Thư Quý thái phi nói, Thái hậu và Nhiếp chính vương thực sự có tư tình, vậy trong cuộc đấu tranh chính trị cực kỳ khốc liệt về sau, khi tự tay ám sát Nhiếp chính vương để đoạt lại vương quyền, quét sạch toàn bộ vây cánh mà ông ta gây dựng, bà ta rốt cuộc cần phải có tâm trí kiên định cùng lòng dạ tàn nhẫn đến thế nào kia chứ? Tôi cơ hồ không dám tin vào điều này.

 

Dường như đã từ rất lâu trước đây rồi, nếu tôi nhớ không nhầm thì là sau lần tôi bị sẩy thai, khi đó tôi đánh rơi khăn tay trong tẩm điện của Thái hậu, bèn quay lại lấy nhưng tại gốc quế hoa bên ngoài tẩm điện lại bất ngờ nghe thấy Tôn cô cô vốn hầu hạ bên cạnh Thái hậu cất lời: “Thái hậu đêm qua ngủ không ngon chút nào, nô tỳ nghe thấy người gọi tên của Nhiếp chính vương lão gia đấy!”

 

Nếu không vì yêu, vì hận, vì nhung nhớ, một nữ nhân cớ gì lại gọi tên một nam nhân không phải trượng phu của mình trong giấc mộng? Bà ta và ông ta là đối thủ chính trị của nhau, vì tranh giành quyền lực mà đối chọi với nhau cực kỳ gay gắt, tại sao bà ta lại gọi tên ông ta trong giấc mộng đây?

 

Còn Thái hậu, sau khi im lặng một hồi bèn gằn giọng nói: “Loạn thần tặc tử, chết không hết tội! Ta đã chẳng nhớ nổi nữa rồi, ngươi cũng chớ có nhắc lại việc này nữa.” Sau đó bèn khẽ thở dài, bên trong chất chứa đầy nỗi triền miên và đau đớn.

 

Phải rồi, tiếng thở dài đó của bà ta rõ ràng là vì Nhiếp chính vương. Bà ta nói bà ta đã không nhớ nổi nữa rồi vậy mà trong giấc mộng lại chẳng thể quên, còn gọi tên của ông ta nữa.

 

Bà ta vẫn nhớ ông ta, có lẽ còn từng yêu, vậy mà lại chính tay giết chết ông ta.

 

Một nữ tử tâm cơ thâm trầm như vậy tuyệt đối không phải là bà lão già nua bệnh tật ngày ngày chỉ tụng kinh niệm Phật, không hỏi gì tới chuyện đời mà tôi nhìn thấy trong cung trước kia. Nghĩ tới cảnh ngộ của Thư Quý thái phi hiện giờ, nỗi kính sợ và tôn trọng của tôi với Thái hậu ngày trước nay đã bị phủ lên một tầng lạnh lẽo khó mà miêu tả bằng lời.

 

Tôi khẽ nói: “Thái hậu thế nào thì con không biết nhưng Hoàng hậu hiện giờ là cháu gái của bà ta, sự lợi hại của nàng ta con đã phải nếm trải không ít rồi.”

 

Thư Quý thái phi cầm lấy bàn tay tôi, giữa hàng lông mày thấp thoáng vẻ lo âu. “Lần này con đi rồi sẽ chẳng còn đường lùi nữa, nhất định phải hết sức cẩn thận mới được.”

 

Tôi khẽ gật đầu. “Người chết ngủ dài dưới đất chẳng còn hay biết gì, nhưng người sống thì vẫn cần vùng vẫy để chịu đựng gánh nặng của cuộc sống. Từ nay về sau, con và Thái phi không thể thăm nom nhau được nữa rồi, Thái phi nhớ phải bảo trọng, dù sao trên đời này cũng chỉ còn có chúng ta là người chí thân của Thanh thôi!”

 

Ngoài cửa, mưa đã ngừng rơi, từ trên mái hiên thỉnh thoảng lại có một giọt nước chảy xuống, mang theo mùi rêu thoang thoảng. Thái phi ngơ ngẩn nhìn ra ngoài trời suốt một hồi lâu, rồi bèn khẽ thở dài: “Có thể bình an mà sống tiếp, vậy cũng đã là tốt lắm rồi!”

 

Tôi im lặng, đưa tay vén bức rèm cửa sổ lên. Sau cơn mưa mờ mịt, bầu không khí đã trở nên vô cùng ẩm ướt, còn thấp thoáng vài tia giá lạnh.

 

Thời gian này tôi yên tâm dưỡng thai trên đỉnh Lăng Vân, lẳng lặng dùi mài tâm trí của mình thành một lưỡi gươm sắc nhọn. Lý Trường không tiện thường xuyên xuất cung, liền sai đồ đệ của y là Tiểu Vưu đến thăm tôi vào mỗi buổi sáng sớm, không sót hôm nào.

 

Tiểu Vưu cười, nói: “Hoàng thượng ngày nào cũng hỏi han tình hình của nương nương đấy!” Thoáng dừng một chút, y lại tiếp: “Nói tới bĩ cực thái lai, ở trong cung không ai có thể so sánh được với nương nương.”

 

Tôi khẽ mỉm cười. “Năm xưa, ta bị nhốt ở Vô Lương điện, là ngươi tới hầu hạ ta, bây giờ lại vẫn là ngươi. Qua đó có thể thấy ta mà muốn bĩ cực thái lai, quyết không thể thiếu con khỉ nhỏ ngươi ở bên cạnh.”

 

Cứ như vậy một tháng trôi qua, ý chỉ của Huyền Lăng vẫn chưa ban xuống, nhưng Phương Nhược chợt lại tới thăm tôi.

 

Hôm nay Phương Nhược dẫn theo một đoàn cung nhân tới chỗ tôi, mang theo rất nhiều hộp đồ ăn và vải vóc. Vừa nhìn thấy tôi, bà ta lập tức tươi cười, nói: “Lâu rồi không gặp, hôm nay thực đã khác hẳn ngày xưa rồi!” Dứt lời bà ta liền quỳ xuống hành lễ. “Nô tỳ Phương Nhược tham kiến Chân Phi nương nương, nương nương kim an.”

 

Tôi vội đỡ bà ta dậy, mỉm cười, nói: “Ý chỉ của Hoàng thượng còn chưa ban xuống, cô cô làm thế này thực khiến ta tổn thọ.”

 

Phương Nhược khẽ nở nụ cười. “Chuyện của nương nương Hoàng thượng đã nói với Thái hậu rồi, Thái hậu không có dị nghị gì. Mà nghe nói nương nương có thai, Thái hậu còn mừng rỡ vô cùng”, dứt lời, bà ta lại vui vẻ nói tiếp: “Nô tỳ còn chưa chúc mừng nương nương nữa đấy! Sau đó, bà ta liền chỉ vào những món đồ trong tay các cung nữ sau lưng, nói: “Những thứ này đều do Thái hậu ban thưởng cho nương nương!”

 

Tôi vội vàng khom người cảm tạ: “Đa tạ Thái hậu đã quan tâm!”, rồi liền ra hiệu cho đám cung nữ kia lui ra, nói: “Đã lâu rồi ta không gặp cô cô, bây giờ đang có rất nhiều lời muốn tâm sự với cô cô đây.”

 

Phương Nhược đỡ tôi ngồi xuống, lại chăm chú nhìn tôi một lát rồi mới nói: “Nương nương cởi bỏ áo ni cô, mặc lại đồ thường, thực sự trông khỏe khoắn hơn nhiều.”

 

Tôi sai Hoán Bích bưng trà lên cho Phương Nhược, điềm đạm nói: “Ta may được cô cô chiếu cố nhiều năm, chẳng ngờ còn có ngày hôm nay, thực đã là niềm hạnh phúc ngoài ý muốn, nếu cô cô còn câu nệ thân phận với ta nữa, ta không dám nói gì thêm đâu.”

 

Phương Nhược khẽ cười tủm tỉm. “Nương nương bây giờ là quý nhân, hơn nữa còn mang thai rồng, thân phận thực tôn quý lắm. Nô tỳ tuy câu nệ quy củ nhưng trong lòng vẫn coi nương nương như xưa.” Nói tới đây, khóe mắt Phương Nhược bất giác thấp thoáng ánh lệ. “Từ hồi tuyển tú, nô tỳ đã trú tại Chân phủ hầu hạ nương nương, rốt cuộc cũng chờ được tới ngày nương nương khổ tận cam lai rồi.”

 

Tôi gật đầu, mỉm cười. “Chẳng qua là được Hoàng thượng xót thương mà thôi”, rồi lại đưa mắt liếc nhìn Phương Nhược, hỏi: “Chuyện ta sắp về cung mọi người đều biết cả rồi sao?”

 

Phương Nhược nói: “Thái hậu đã biết từ mười ngày trước rồi, khi đó Thái hậu vừa tỉnh dậy sau cơn hôn mê, Hoàng thượng hay tin tới thỉnh an và nhân tiện nói luôn chuyện này. Vừa khéo lúc đó Huệ Quý tần đang ở bên hầu hạ Thái hậu, tất nhiên là vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, có lý nào lại không nói giúp. Vốn dĩ Thái hậu còn do dự, nói là không có tiền lệ phế phi được trở về cung. Hoàng thượng bèn nói năm xưa nương nương tự xin rời cung cầu khấn cho Đại Chu được đời đời hưng thịnh, tuy không còn danh vị nhưng cũng không thể tính là đã bị phế truất. Rồi ngài lại nhắc tới việc nương nương đã có thai, thế là Thái hậu tất nhiên không còn phản đối gì nữa.”

 

Tôi hơi cụp mắt xuống, nhìn những chiếc móng tay đã dài ra của mình, hỏi: “Vậy người khác thì sao? Hoàng hậu là chủ nhân của lục cung cơ mà.”

 

Phương Nhược hơi nhếch khóe môi, để lộ một nụ cười điềm đạm. “Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt là điềm báo chẳng lành, suốt thời gian vừa rồi, chứng đau đầu của Hoàng hậu phát tác dữ dội, người chẳng xuống nổi giường, được An Quý tần và Quản Tiệp dư hầu hạ kề bên ngày đêm chăm sóc. Hoàng thượng cũng đã dặn dò không cho phép bất cứ ai mang những chuyện vụn vặt trong cung đi làm phiền Hoàng hậu, để Hoàng hậu yên tâm tĩnh dưỡng. Do đó, Hoàng hậu chắc vẫn còn chưa biết. Nương nương lần này về cung với cái thai trong người, còn ai dám nói lời phản đối? Đợi sau khi chiếu thư ban xuống, sẽ chẳng có ai thay đổi được gì nữa.”

 

Phương Nhược nói xong liền nhìn tôi bằng ánh mắt sâu xa đầy ý vị. Tôi lập tức hiểu ngay ý tứ, ấy là trước khi chiếu thư của Huyền Lăng được ban xuống, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, bà ta muốn nhắc tôi phải ngắm chuẩn thời cơ xin Huyền Lăng hạ chỉ để tránh đêm dài lắm mộng.

 

Tôi thoáng lộ nét âu lo, chậm rãi nói: “Nhưng cả tháng vừa rồi Hoàng thượng chưa tới thăm ta lần nào.”

 

Phương Nhược khẽ mỉm cười. “Hoàng thượng hồi này đang bận lắm. Sau khi về cung, nương nương đương nhiên cần có chỗ ở, phủ Nội vụ đã chọn mấy tòa cung điện vừa khang trang vừa hoa lệ như Diễn Khánh cung, Lâm Quang cung, Ý An cung, nhưng Hoàng thượng đều không hài lòng, nói là muốn xây dựng một tòa cung điện mới cho nương nương. Nhưng phủ Nội vụ lại nói nương nương đang có thai, Từ Tiệp dư trong cung cũng vậy, xây dựng rầm rộ thực không thích hợp chút nào, thế là Hoàng thượng liền có ý sai người quét dọn sạch sẽ Chiêu Tín cung ở gần Nghi Nguyên điện nhất, lại gọi thợ thuyền tới vẽ bản thiết kế, chuẩn bị cho tu sửa, cải tạo lại, như thế cũng không thể tính là xây dựng rầm rộ được. Những người bên cạnh Hoàng thượng đều rất kín tiếng, thành ra mọi người trong cung chỉ ngỡ là Hoàng thượng chuẩn bị tiến phong cho vị nương nương nào đó thôi, ai cũng đoán già đoán non, nhưng chẳng ai nghĩ tới nương nương cả.”

 

Tôi cười, nói: “Kỳ thực ở đâu cũng thế cả thôi, sao ta có thể đòi hỏi gì được, Hoàng thượng thực đã nhọc lòng quá rồi!”

 

Phương Nhược nghiêm túc nói: “Nương nương bây giờ đã sắp được phong làm phi, đứng ngang hàng với Đoan Phi và Kính Phi, tuy thời gian vào cung còn chưa đủ dài nhưng đã sinh được Lung Nguyệt Công chúa, giờ lại có thai nữa, tiền đồ thực thênh thang hết mức, được Hoàng thượng xem trọng cũng là lẽ thường tình.”

 

“Ngoài việc vừa rồi ra, Hoàng thượng còn bận rộn những gì nữa?”

 

“Kỳ thực ý của Hoàng thượng đã rất rõ ràng, ấy là sau khi cải tạo xong Chiêu Tín cung, sẽ đón nương nương về cung. Hơn nữa thời gian gần đây ngài bận rộn việc nước, còn phải để ý tới Thái hậu và Hoàng hậu, thực chẳng có cách nào phân thân được, đã khiến nương nương phải chịu ấm ức rồi!”

 

Tôi biết vậy thì yên tâm hẳn, liền mỉm cười vui vẻ nói: “Ta có gì đâu mà phải ấm ức chứ, Hoàng thượng làm vậy cũng là vì ta cả thôi.” Thoáng trầm ngâm, tôi lại tiếp: “Hoàng thượng ngoài bận rộn việc nước ra, khi ở trong cung có…” Tôi thấy Phương Nhược lộ vẻ dò hỏi, bèn dứt khoát đi thẳng vào vấn đề: “Ta cũng không vòng vo với cô cô nữa, tính từ lúc ta rời cung tới giờ đã được hơn bốn năm, hậu cung trải qua hai lần tuyển tú, đã không chỉ có những người năm xưa nữa. Ta rất muốn được cô cô chỉ điểm cho một chút, bên cạnh Hoàng thượng bây giờ những vị tỷ muội nào đang đắc sủng nhất vậy?”

 

Phương Nhược hơi nhướng mày, rất nhanh sau đó đã lại khôi phục vẻ bình thường. “Sau khi về cung, nương nương đúng là khó tránh khỏi việc phải giáp mặt với mấy vị nương nương và tiểu chủ khác.” Bà ta đưa tay gạt nhẹ một lọn tóc rối ra sau tai, điềm đạm nói tiếp: “Người đắc sủng nhất bây giờ tất nhiên là Xương Quý tần, thân mẫu của Hòa Mục Công chúa. Xương Quý tần vừa có xuất thân cao quý lại vừa xinh đẹp, nếu không vì chưa sinh được một vị hoàng tử, gia tộc của phụ thân lại sớm đã lụn bại, e rằng vị trí trống trong Tam phi đã chẳng tới lượt nương nương rồi.”

 

Tôi nghe Phương Nhược nói vậy, tâm tư xoay chuyển liên hồi. Xương Quý tần là con gái của Tấn Khang Quận chúa, tôi tất nhiên không thể so sánh được với thân phận của nàng ta, may mà nàng ta không thể sinh nở được nữa, cũng không có gì đáng ngại. Có điều, nếu tôi không về cung, vị trí còn trống trong Tam phi này cuối cùng nhất định sẽ thu٣ về nàng ta.

 

Phương Nhược lại nói tiếp: “Một người khác thì khỏi cần phải nói, tuy không đắc sủng nhất nhưng sự ân sủng thì chưa từng suy giảm, đó chính là An Quý tần trước đây từng giao hảo với nương nương. Hiện giờ An Quý tần trú tại Cảnh Xuân điện, nắm quyền quản lý. Trong cung hiện giờ những người ở ngôi quý tần gồm có Xương Quý tần, An Quý tần, Huệ Quý tần và Hân Quý tần, vì việc mừng nương nương chuẩn bị về cung, Hoàng thượng định phong Xương Quý tần làm chiêu nghi đứng đầu Cửu tần, phong Hân Quý tần làm chiêu dung, cũng đứng vào hàng Tòng nhị phẩm, sau đó lại phong Quản Tiệp dư làm Kỳ Quý tần. Nương nương cũng biết đấy, Hân Quý tần sớm đã không còn đắc sủng, Hoàng thượng chẳng qua chỉ nể tình nghĩa ngày xưa thôi, Xương Quý tần và Quản Tiệp dư mới là người cần chú ý. Vị Phó Tiệp dư đã chết kia không cần nhắc tới nữa, ngoài ra thì còn có Khánh Tần, Tường Tần, Dương Phương nghi và một vài vị tiểu chủ khác mới vào cung cũng khá đắc sủng.”

 

Trầm ngâm suy nghĩ một chút, tôi đã đại khái nắm được tình hình, liền cười, nói: “Được nghe những lời này của cô cô còn hơn là đọc sách mười năm, nhưng chẳng hay vị Từ Tiệp dư đang mang thai kia thì thế nào?”

 

“Tình cảm của Hoàng thượng với Tiệp dư tiểu chủ chẳng có gì đáng kể. Từ Tiệp dư từ khi mới vào cung đã không đắc sủng rồi, chỉ vì năm đó Hoàng thượng dùng ngũ thạch tán mắc bệnh nặng, Từ Tiệp dư ngày đêm quỳ trước Thông Minh điện cầu khấn cho Hoàng thượng, do đó mới được xót thương một chút. Có điều đó cũng là việc của ngày xưa, nếu lần này Từ Tiệp dư có thể thuận lợi sinh được một vị hoàng tử, tất nhiên sẽ được sủng ái vô cùng.” Phương Nhược chợt nở một nụ cười dịu dàng. “Còn về những vị tiểu chủ mới vào cung kia, nương nương không cần phải để tâm lắm. Mà lần này Thái hậu chịu đồng ý cho nương nương về cung một cách thoải mái như vậy, kỳ thực còn có một tầng nguyên nhân khác bên trong.” Trong đôi mắt hẹp dài, sâu thẳm của Phương Nhược thoáng qua một gợn sóng nhẹ. “Chắc Lý công công đã từng kể với nương nương về nữ tử huấn luyện thú họ Diệp kia rồi chứ?”

 

Tôi bình thản đáp: “Ta có nghe qua.”

 

Phương Nhược nói: “Nữ tử này thân phận quả thực thấp kém tột cùng. Một tháng trước đây, cô ta còn là tuyển thị, giờ đã được Hoàng thượng phong làm thường tại rồi. Mà nếu chỉ có thế thì còn đỡ, nhưng không ngờ cô ta lại cóả phong hiệu, được ban cho một chữ ‘Diễm’, trở thành Diễm Thường tại. Chỉ e cứ tiếp diễn theo đà này, cuối cùng Hoàng thượng sẽ vì cô ta mà phá vỡ quy củ nữ tử thân phận thấp kém không thể mang thai rồng mất.”

 

Tôi thoáng ngẩn ra, buột miệng hỏi: “Thực sự đã ban phong hiệu rồi sao?”

 

Phương Nhược đáp: “Dạ phải! Cũng khó trách An Quý tần lại ghen tị, cô ta đến bây giờ đã trở thành quý tần rồi, vậy mà vẫn chỉ có thể dùng họ làm phong hiệu, tất cả là bởi cha cô ta chỉ là một viên quan nhỏ. Nhưng giờ đây Diệp thị thân phận thấp kém đến thế, vậy mà đã có phong hiệu từ lúc còn là thường tại, Thái hậu giận dữ cũng là điều dễ hiểu.” Sau khi nhấp một ngụm trà, bà ta chậm rãi nói tiếp: “Do đó Thái hậu mới nghĩ nếu nương nương về cung rồi sinh nở thuận lợi, Hoàng thượng ắt sẽ hồi tâm chuyển ý”, rồi lại chợt thở dài một hơi. “Nương nương không biết đấy thôi, năm đó vì vị Phó Tiệp dư kia, Hoàng thượng đã từng nổi trận lôi đình. Thái hậu giờ đây rất muốn có một nữ tử thông tình đạt lý lại hiểu rõ đại nghĩa ở bên hầu hạ Hoàng thượng.”

 

Tôi nở một nụ cười rạng rỡ. “Phó Tiệp dư thì ta không gặp được nữa rồi, có điều Diệp thị có thể trở thành cung tần từ thân phận một nữ tử huấn luyện thú thấp kém như thế, lại còn được sủng ái tới mức này, ta thật sự rất muốn xem xem cô ta là hạng người thế nào.”

 

Phương Nhược nói: “Sau khi về cung rồi, nương nương sẽ gặp được cô ta thôi, có điều nương nương phải cẩn thận, nữ tử này tính cách quái gở vô cùng, người thường khó mà tiếp cận, lại vì được sủng ái nên càng chẳng coi ai ra gì.”

 

Tôi khẽ cười bình thản. “Ta chỉ lo việc của ta, cô ta thì chỉ lo việc của cô ta, bọn ta nước sông không phạm nước giếng là được.”

 

Phương Nhược mỉm cười hiền hòa, nói: “Nương nương cũng không cần để tâm tới cô ta quá. Diệp thị này xuất thân thấp kém, dựa theo quy củ trong cung sau mỗi lần thị tẩm đều phải uống thuốc, quyết không thể có thai được. Nói cách khác, cô ta không có tư cách kéo dài huyết mạch của hoàng gia. Cho dù Hoàng thượng có chịu vì cô ta mà phá lệ, địa vị của cô ta cũng không thể nào so được với nương nương.”

 

Tôi ung dung đứng dậy, đưa tay chỉnh lại cây trâm bạc trên đầu, tựa người tới bên cửa sổ nhìn cảnh xuân tươi đẹp bên ngoài. “Lời dạy của cô cô ta đã ghi nhớ kĩ cả rồi. Có điều, bây giờ còn chưa rõ đến khi nào Chiêu Tín cung mới được cải tạo xong, quãng thời gian sắp tới ta nhất định sẽ thật cẩn thận.”

 

Phương Nhược điềm đạm nói: “Vậy là tốt nhất. Hiện giờ nô tỳ qua lại không tiện, chỉ có thể ở trong cung chờ nương nương thôi.” Chợt bà ta lại cười khúc khích. “Năm xưa nương nương còn giận, từng nói dù có kiệu tám người khiêng cũng chẳng chịu về cung. Bây giờ nô tỳ nghe nói đội nghi trượng tới đón nương nương có quy cách bằng một nửa của Hoàng hậu nương nương cơ đấy.”

 

Tôi đưa tay nhẹ nhàng đón lấy một cánh hoa đào vừa rơi xuống, cười nói: “Chuyện đã xảy ra từ lâu lắm rồi, không ngờ cô cô vẫn chưa quên.”

 

Sau một hồi nói cười trò chuyện và tiễn Phương Nhược rời đi, tôi nằm trên giường trầm ngâm trong chốc lát, rồi bèn nhờ Hoán Bích mang giấy bút tới cho mình.

 

Hoán Bích tò mò hỏi: “Đang yên đang lành, tiểu thư muốn viết gì vậy?”

 

Tôi trầm tư suy nghĩ, Phương Nhược nói đúng, Huyền Lăng muốn xuất cung vốn đã không dễ gì, bây giờ lại bị vướng bận bởi nhiều việc, bên cạnh y bất cứ lúc nào cũng có thể xuất hiện một phi tần đắc sủng mới, ngày nào tôi còn chưa nhận được thánh chỉ sắc phong thì ngày đó còn chưa yên ổn. Tôi nhất định phải tìm cách giữ chặt trái tim của Huyền Lăng mới được.

 

Thế là tôi bèn ung dung nhúng mực, vung bút viết ra những con chữ thướt tha.

 

Nhìn xanh hóa đỏ lạ thay, xác thân tiều tụy vì ai võ vàng. Chẳng tin thiếp khóc nhớ chàng, mở rương xem lệ thấm loang quần hồng.[1]

 

[1] Nguyên văn Hán Việt: Khán chu thành bích tư phân phân, tiều tụy chi ly vi ức quân. Bất tín ti lai trường hạ lệ, khai tương nghiệm thủ thạch lựu quần. Dịch thơ Phan Thị Hảo – ND.

 

Đây là bài thơ tình Như ý nương mà Võ Hậu nhà Đường viết cho Cao Tông khi đi tu ở chùa Cảm Nghiệp, tả về nỗi khổ tương tư đợi chờ. Tôi lúc này không viết ra được bài thơ nào về nỗi tương tư như thế, chỉ đành mượn tạm trước tác phẩm của người khác mà thôi.

 

Viết xong, tôi gấp tờ giây lại, giao cho Hoán Bích, nói: “Đợi Tiểu Vưu tới đây thỉnh an thì hãy đưa thứ này cho gã, nhờ gã chính tay giao cho Hoàng thượng.”

 

Hoán Bích khẽ gật đầu. “Mỗi bước đi của chúng ta bây giờ đều có liên quan tới tương lai, nô tỳ nhất định sẽ cẩn thận.”

back top