Do Mã đồ tể đặc biệt thối nhường, chiến trường không còn nổi sóng, Viên Thiệu nhân tiện công chiếm toàn bộ Tịnh Châu, nhưng do hai bộ kỵ binh Mạc Bắc của Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu áp cảnh, Viên Thiệu bị bức phải dẫn trọng binh về thủ quận Nhạn Môn, Trung Sơn. Viên Thiệu chuẩn bị nhân cơ hội tiến công Hà Sáo, bóp chết kế hoạch của Mã đồ tể khi còn ở trong trứng nước.
Tháng năm năm Kiến An Hiến Đế thứ chín (196).
Trải qua một phen cò kè mặc cả, Viên Thiệu mà Mã Dược cuối cùng cũng đạt thành hiệp nghị bí mật, Viên Thiệu cung cấp năm vạn thạch quân lương, hai ngàn thớt vải, năm trăm thớt tơ lụa cho Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu. Còn Chu Thương và Bùi Nguyên Thiệu thì cung cấp hai vạn thớt ngựa chân ngắn, mà năm trăm thớt Sơn Đan quân mã.
Song phương ước định trong vòng hai năm sẽ không công phạt nhau.
Quân Hà Bắc nhường quận Tây Hà làm lá chắn mặt đông cho Hà Sáo, xem như trao đổi quân Lương phải hiệp trợ quân Hà Bắc đoạt được quận Thượng Đảng, coi như là lá chắn mặt tây cho Ký Châu.
Tháng tư năm Kiến An thứ chín.
Sau khi ký hiệp nghị, Viên Thiệu lập tức phái đại tướng Trương Cáp lĩnh binh hai vạn, hào xưng là năm vạn quân nam hạ quận Thượng Đảng, chuẩn bị đông tây giáp kích với ba vạn đại quân của Thuần Vu Quỳnh, nhất cử tiêu diệt Trương Dương. Mà lúc này, Trương Dương vì thế công cường đại của quân Hà Bắc, liên tục cầu cứu quân Tịnh Châu và quân Lương.
Tháng năm, Mã Dược phái đại tướng Cao Thuận dẫn tám ngàn quân bắt đầu tiến tới Thượng Đảng, Trương Dương vui mừng quá đỗi không hề biết rằng quận Thượng Đảng của hắn sớm đã thành thẻ tính điểm trên bàn đàm phán của Mã đồ tể và Viên Thiệu. Hắn sớm đã bị Mã đồ tể vô tình bán đứng rồi. Trương Dương đến chết cũng không minh bạch, Mã đồ tể sao lại cấu kết với Viên Thiệu? Vì sao lại bán đứng hắn?
Bởi vì theo hắn thấy, Mã đồ tể làm vậy thì không có được lợi ích gì cả.
...
So sánh với sự yên ả của chiến trường Tịnh Châu thì chiến trường Dương Châu ở phương Nam lại lộ ra thế như phá trúc.
Mùa xuân năm Kiến An thứ chín, Chu Du tự mình dẫn mấy trăm thuyền vận lương men theo ven xông mà lên. Thái thú Trương Duẫn không biết là kế, phái thuyền nhẹ và đấu hạm ồ ạt truy kích. Kết quả ở trên hồ Phàn Dương gặp mây mù thành ra mất phương hướng, nhân lúc thuyền nhẹ và đấu hạm của thủy quân Kinh Châu bị cách ly, hãn tướng Chu Thái, Tưởng Khâm của thủy quân Đông Ngô dẫn thủy quân tinh nhuệ từ đám lau sậy ở ven sông đột nhiên giết ra.
Mất đi sự bảo hộ của thuyền nhẹ và đấu hạm, lâu thuyền cỡ lớn của thủy quân Kinh Châu lộ ra hành động chậm chạp, động tác vụng về. Sau cùng bị chiến thuật lang quần của thủy quân Đông Ngô vây kín, mười chiếc lâu thuyền cỡ lớn toàn bộ bị thiêu hủy. Thái Trương Duẫn chỉ đành suất lĩnh mấy chục thuyền nhẹ để trốn chạy.
Thủy quân Kinh Châu đại bại, Lư Giang Lưu Huân mất hết viện trợ từ bên ngoài, đành ra khỏi thành đầu hàng Tôn Kiên.
Sau khi công chiếm Lư Giang, Chu Du ngay đêm tới Thư huyện hiến kế cho Tôn Kiên, đề xuất chiến lược vạch sông mà cai trị.
Chu Du cho rằng, hiện giờ phương bắc kiêu hùng đầy rẫy. Tây bắc Mã đồ tể, phương bắc Viên Thiệu, Trung Nguyên Tào Tháo đều là bất thế kiêu hùng, cho nên không thể mưu cầu. Quân Ngô lúc này nên đặt mình ở bên ngoài, ngồi đợi phương bắc hỗn chiến, chứ không nên tùy tiện tham gia vào hỗn chiến Trung Nguyên, để tránh lấn sâu vào rồi không thể rút chân ra được.
Nhưng Lưu Biểu Kinh Châu, Lưu Chương Ích châu lại là hạng vô năng.
Chu Du kiến nghị Tôn Kiên nên lệ binh mạt mã, tích súc quân tư. Nhân lúc tam đại quân phiệt ở phương bắc đang hỗn chiến không ngừng mà vượt sông thảo diệt Lưu Biểu, Lưu Chương. Có được Kinh Châu, Ích Châu, như vậy thì có thể vạch sông mà cai trị. Nếu thời cơ thỏa đáng (ví dụ như quân phiệt phương bắc vì nhiều năm hỗn chiến mà đại thương nguyên khí) thì có thể mang trăm vạn cường binh bắc phạt Trung Nguyên, nếu thời thế không thuận tiện (Chư hầu phương bắc bị một trong ba người Mã đồ tể, Tào Tháo, Viên Thiệu nhất thống), cũng có thể nhờ Trường Giang hiểm yếu để tự thủ.
Sách lược này của Chu Du có thể nói là rất có nhãn quang chiến lược.
Theo phát hiện nhạy cảm của Chu Du, chiến trường Trung Nguyên là một đầm bùn lầy, với thực lực hiện tại của Đông Ngô mà đầu nhập vào trong thì vị tất đã đạt được ích lợi. Hơn nữa Đông Ngô thiếu lực lượng có tính chiến lược để tranh giành Trung Nguyên. Đó chính là kỵ binh! mà dưới tiền đề không có đủ kỵ binh, quân Ngô tùy tiện bắc thượng Trung Nguyên là rất bất trí, đặc biệt là lúc đối diện với Mã đồ tể lấy kỵ binh để khởi nghiệp, càng ở vào thế yếu.
Nhưng Kinh Châu Lưu Biểu và Ích Châu Lưu Chương thì lại khác.
Trước tiên vị trí của Kinh Châu, Ích Châu là ở phương nam, đường sông ngang dọc, kênh rạch chằng chịt, vì vậy mà hai nơi này không thuận lợi để vận dụng kỵ binh. Hơn nữa lại có Trường Giang tương liên với Đông Ngô. Thủy quân Đông Ngô có thể men theo sông mà lên, trong chiến tranh mang tới tác dụng có tính quyết định. Sau khi công chiếm được Kinh Châu, Ích Châu rồi, Đông Ngô cũng có thể dựa vào đường sông, kênh rạch để chống đỡ lực lượng kỵ binh của quân phiệt phương bắc.
Sách lược này của Chu Du hoàn toàn là tránh được thế yếu về chiến lược của Đông Ngô, mà lại phát huy được ưu thế chiến lược của Đông Ngô tới cực trí.
Tôn Kiên tiếp thu kiến nghị của Chu Du, lấy trưởng tử Tôn Sách làm lục quân đại đô đốc đóng binh ở Lư Giang Thư huyện. Cho Chu Du làm thủy quân đại đô đốc đóng binh ở Hồ Khẩu. Đại Tướng Thái Sử Từ, Phan Chương, Chu Thái, Tưởng Khâm tới trước trướng nghe điều động, lại lệnh cho Trương Chiêu, Trương Hoành, Cố Ung, bắt tay xây dựng thủy lợi, chỉnh đốn nông nghiệp, mau chóng trữ bị lương thảo quân tư, thời khắc chuẩn bị công đánh Kinh Châu.
...
So sánh với thế như phá trúc của quân Ngô trên chiến trường Dương Châu thì quân Tào và quân Lữ Bố ở chiến trường Duyện Châu lại đánh tới mức nan giải nan phân. Có điều tới tháng năm năm Kiến An Hiến Đế thứ chín (196), chiến trường Đông quận và chiến trường Lương quốc đồng thời xuất hiện chuyển cơ! tại
Bắt đầu từ loạn khăn vàng năm Trung Bình Linh Đế thứ ba (84), chiến hỏa Dự Châu, Duyện Châu một mực chưa hề ngừng nghỉ. Chiến loạn nhiều năm dẫn tới nhân khẩu hai Châu này giảm mạnh, dân chúng lầm than. Một lượng lớn nhân khẩu thanh niên chết trận vẫn tạo thành sự thiệt hại có tính hủy diệt đối với sản xuất nông nghiệp.
Đây cũng là nguyên nhân lớn nhất mà Tào Tháo tuy nghênh đón và hầu hạ thiên tử, chiếm được đại nghĩa triều đình nhưng thủy chung vẫn ở thế yếu.
Có điều, đáng để thấy may mắn là Quách Gia (trong lịch sử chân thực là Mao Giai, đừng bị cuốn sách này làm nhầm) khi Tào Tháo sắp lâm vào tuyệt cảnh thì lại xuất hiện, đề xuất kế sách đồn điền cho Tào Tháo.
Cái gọi là đồn điền, dùng thuật ngữ hiện tại để giải thích thì chính là thành lập binh đoàn sản xuất và xây dựng. Cách làm của nó chính là thống nhất an trí bạo dân khăn vàng bị ép hàng và lưu dân chiêu mộ được lại với nhau, tiến hành quản lý quân sự hóa. Do chính phủ thống nhất đề cung các loại vật tư sản xuất như ruộng đất, dụng cụ nông canh, trâu cày, cây trồng. Để bạo dân khăn vàng và lưu dân xuất công xất lực tiến thành canh tác, lương thực sản xuất ra thì tiến hành chia năm năm hoặc là sáu bốn.
Đồn điền mà Mã đồ tể thực hiện ở bắc địa Hà Sáo kỳ thực cũng na ná như cách làm của Tào Tháo.
Lợi ích của đồn điền là rất kinh người.
Gánh nặng của bách tính thời Hán là rất lớn, tuyệt đại bộ phận thu hoạch đều phải dùng để nộp thuế ruộng, nhưng đại bộ phận đều bị địa chủ hào cường ở giữa khấu lưu, thuế ruộng nộp lên quốc khố chỉ còn một phần mười hoặc là một phần mười lăm. Lúc thuế nhẹ nhất thậm chí chỉ có một phần ba mươi!
Tới hậu kỳ Đông Hán, triều đình kỳ thực cũng muốn tăng thuế, nhưng đã không thể tăng thêm được nữa. Bởi vì thu hoạch của bách tính chỉ còn lại một hai phần, nếu còn tăng nữa thì lão bách tính sẽ không còn đường sống! Để bảo hộ lợi ích của mình, đại chủ hào cường thời Hán mạt và các sĩ tộc lực lượng trung kiên đều cùng nhau phải đối triều đình tăng thuế. Hoàn Đế, Linh Đế bị bức tới bất lực, mới nghĩ ra "cao chiêu" là bán quan. Kết quả là đẩy đế quốc Đại Hán cực thịnh một thời tới bờ diệt vong.
Đồn điền dưới tiền đề không chất thêm gánh nặng cho bách tính, khiến tiền lương thu được tăng lên mấy lần thậm chí là mấy chục lần, quốc khố được tăng cường hơn hiều. Lợi ích của nó từ đó cho thấy là rất không tầm thường. Chính bởi vì có cường lực của chế độ đồn điền giúp đỡ, Tào Tháo mới có thể đứng vững ở hai châu Duyên, Dự đói nghèo tới cực điểm này.
Tuy bốn mặt đều có cường địch, nhưng Tào Tháo vẫn đứng vững.
Lại nói Tào Tháo và Lữu Bố đang giằng co nhau ở Lương quốc thì nháy mắt đã tới tháng năm năm Kiến An thứ chín, đột nhiên phát hiện chiến cơ không ai ngờ tới xuất hiện. Quân Tào vì thiếu lương, bị bức vào Tựu cốc ở Hướng quận.
Bởi vì Lương quốc không có nông trường đồn điền. Nhân quân Tào đóng ở Bộc Dương cũng đối diện với khốn cục là thiếu thốn quân lương, không thể không mạo hiểm phái binh tới Tể Bắc quốc, Đông Bình quốc để cướp luá mì. Bởi vì Tể Bắc quốc, Đông Bình quốc đều có nông trường đồn điền. Quân Từ Châu của Tào Báo, Trương Liêu tuy đã công chiến Tể Bắc và Đông Bình, nhưng lại không phá hủy nông trường đồn điền, cũng không phái binh đóng giữ.
...
Trong đại trướng, Tào Tháo đang triệu tập đám văn võ tâm phúc Quách Gia, Tuân Du, Lưu Diệp, Quan Vũ, Tàng Bá tới nghị sự. Lưu Diệp phụ trách tình báo bước lên trước, nói: "Chúa công, thám mã hồi báo, Lữ Bố vẫn chưa suất lĩnh đại quân tiến công Hứa Đô mà lại suất lĩnh đại quân chiếm đóng Kiến Bình của huyện đông bắc."
Tới năm Kiến An Hán Hiến Đế thứ chín, trải qua chiến loạn trong thời gian dài. Thành trì trong biên giới Duyện Châu, Dự Châu đã bị tổn hại nghiêm trọng, trừ số ít mấy tòa thành như Hứa Xương, Bộc Dương ra, đại đa số thành trì khác đều đã tan vỡ bất kham, căn bản không có giá trị để chiếm lĩnh, giống như Kiến Bình, huyện đông bức mà Tào Tháo, Lữ Bố đóng binh hiện tại đều là thành trì bỏ hoang, căn bản chỉ làm được quân doanh mà thôi.
Tào Tháo vuốt râu cười nói: "Lữu Bố chí cao mà tài hèn, Công Đài thì lại là người thông minh."
Quách Gia nói: "Lữu Bố xuất quân chiếm giữ Kiến Bình, dụng ý của hắn không nghi ngờ gì nữa chính là phá rối Tựu cốc của quân ta. Chúa công sao không lợi dụng bố cục này, để kẻ thông minh lại bị thông minh hại, cuối cùng giết cho Lữ Bố hoa rơi nước chảy."
Tào Tháo mắt lộ ra vẻ kỳ dị, cười hỏi: "Không biết Phụng Hiếu có kế gì vậy?"
Quách Gia nói: "Đợi ngày mai, các quân không cần để ý đến kẻ địch ở Kiến Bình, cứ ra ngoài thu cắt lúa mạch như bình thường."
Tàng Bá nói: "Khi các quân ra ngoài thu lúa mạch, nếu Lữ Bố đột nhiên xuất quân đánh lén thì chư quân đều không kịp về đại doanh. Chúa công chẳng phải là gặp nguy sao?"
Quách gia nói: "Lữ Bố nếu dẫn quân đánh lén, tại hạ tự có tính toán."
Tàng Bá ôm quyền nói với Tào Tháo: "Chúa công, mạt tướng cho rằng cứ lưu lại một nhánh quân mã bảo hộ an nguy cho chúa công là tốt nhất."
"Không cần đâu, ha ha." Tào Tháo vuốt râu cười nói: "Thế nhân đều cho rằng cô giảo hoạt đa nghi, tuyệt sẽ không cho đối thủ cơ hội, lần này cô đột nhiên mở cửa, để cho đối thủ thời cơ. Công Đài tất nhiên sẽ hoài nghi, cho rằng trong đó có trá, chắc không dám tùy tiện vào thành, bản tướng vẫn sẽ vững như Thái Sơn thôi."
Chư tướng bất đắc dĩ chỉ đành vâng lời.
Tới ngày hôm sau, chư tướng mỗi người suất quân ra ngoài thu gặt lúc mạch, Tào Tháo chỉ lệnh cho Quan vũ dẫn năm trăm đao thủ lưu lại giữ doanh trại, lại lệnh cho hai trăm thần xạ thủ mai phục trong hai mảng rừng rậm ở hai bên ngoài thành, an bài xong tất cả, Tào Tháo lại thiết yến trong trướng, cùng bọn Quách Gia, Tuân Du đối ẩm.
Khi sắp đến giữa trưa, thám mã hồi báo, Lữ Bố quả nhiên dẫn quân tới tập doanh.
Tào Tháo mừng rỡ đứng bật dậy, cao giọng nói: "Quan Vũ ở đâu?"
Quan Vũ ứng tiếng bước vào trướng, ôm quyền nói: "Có mạt tướng."
Tào Tháo nói: "Dẫn năm trăm đao thủ bày trận ở ngoài thành."
Quan Vũ nói: "Tuân lệnh."
Nhìn bóng của Quan Vũ rời đi, Tào Tháo lại phân phó thân binh: "Người đâu, chuyển tiệc rượu lên thành lâu."
Đợi thân binh chuyển bàn rượu đi rồi, Tào Tháo mới vỗ vỗ tay, nói với Quách Gia, Tuân Du: "Phụng Hiếu, Công Đạt, theo cô tới thành lâu ẩm yến, có lưỡi mác của Lữ Bố trợ hứng chẳng phải là vui lắm sao."
Quách Gia, Tuân Du đồng thời chắp tay nói: "Mời chúa công."
Tháng năm năm Kiến An Hiến Đế thứ chín (196).
Trải qua một phen cò kè mặc cả, Viên Thiệu mà Mã Dược cuối cùng cũng đạt thành hiệp nghị bí mật, Viên Thiệu cung cấp năm vạn thạch quân lương, hai ngàn thớt vải, năm trăm thớt tơ lụa cho Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu. Còn Chu Thương và Bùi Nguyên Thiệu thì cung cấp hai vạn thớt ngựa chân ngắn, mà năm trăm thớt Sơn Đan quân mã.
Song phương ước định trong vòng hai năm sẽ không công phạt nhau.
Quân Hà Bắc nhường quận Tây Hà làm lá chắn mặt đông cho Hà Sáo, xem như trao đổi quân Lương phải hiệp trợ quân Hà Bắc đoạt được quận Thượng Đảng, coi như là lá chắn mặt tây cho Ký Châu.
Tháng tư năm Kiến An thứ chín.
Sau khi ký hiệp nghị, Viên Thiệu lập tức phái đại tướng Trương Cáp lĩnh binh hai vạn, hào xưng là năm vạn quân nam hạ quận Thượng Đảng, chuẩn bị đông tây giáp kích với ba vạn đại quân của Thuần Vu Quỳnh, nhất cử tiêu diệt Trương Dương. Mà lúc này, Trương Dương vì thế công cường đại của quân Hà Bắc, liên tục cầu cứu quân Tịnh Châu và quân Lương.
Tháng năm, Mã Dược phái đại tướng Cao Thuận dẫn tám ngàn quân bắt đầu tiến tới Thượng Đảng, Trương Dương vui mừng quá đỗi không hề biết rằng quận Thượng Đảng của hắn sớm đã thành thẻ tính điểm trên bàn đàm phán của Mã đồ tể và Viên Thiệu. Hắn sớm đã bị Mã đồ tể vô tình bán đứng rồi. Trương Dương đến chết cũng không minh bạch, Mã đồ tể sao lại cấu kết với Viên Thiệu? Vì sao lại bán đứng hắn?
Bởi vì theo hắn thấy, Mã đồ tể làm vậy thì không có được lợi ích gì cả.
...
So sánh với sự yên ả của chiến trường Tịnh Châu thì chiến trường Dương Châu ở phương Nam lại lộ ra thế như phá trúc.
Mùa xuân năm Kiến An thứ chín, Chu Du tự mình dẫn mấy trăm thuyền vận lương men theo ven xông mà lên. Thái thú Trương Duẫn không biết là kế, phái thuyền nhẹ và đấu hạm ồ ạt truy kích. Kết quả ở trên hồ Phàn Dương gặp mây mù thành ra mất phương hướng, nhân lúc thuyền nhẹ và đấu hạm của thủy quân Kinh Châu bị cách ly, hãn tướng Chu Thái, Tưởng Khâm của thủy quân Đông Ngô dẫn thủy quân tinh nhuệ từ đám lau sậy ở ven sông đột nhiên giết ra.
Mất đi sự bảo hộ của thuyền nhẹ và đấu hạm, lâu thuyền cỡ lớn của thủy quân Kinh Châu lộ ra hành động chậm chạp, động tác vụng về. Sau cùng bị chiến thuật lang quần của thủy quân Đông Ngô vây kín, mười chiếc lâu thuyền cỡ lớn toàn bộ bị thiêu hủy. Thái Trương Duẫn chỉ đành suất lĩnh mấy chục thuyền nhẹ để trốn chạy.
Thủy quân Kinh Châu đại bại, Lư Giang Lưu Huân mất hết viện trợ từ bên ngoài, đành ra khỏi thành đầu hàng Tôn Kiên.
Sau khi công chiếm Lư Giang, Chu Du ngay đêm tới Thư huyện hiến kế cho Tôn Kiên, đề xuất chiến lược vạch sông mà cai trị.
Chu Du cho rằng, hiện giờ phương bắc kiêu hùng đầy rẫy. Tây bắc Mã đồ tể, phương bắc Viên Thiệu, Trung Nguyên Tào Tháo đều là bất thế kiêu hùng, cho nên không thể mưu cầu. Quân Ngô lúc này nên đặt mình ở bên ngoài, ngồi đợi phương bắc hỗn chiến, chứ không nên tùy tiện tham gia vào hỗn chiến Trung Nguyên, để tránh lấn sâu vào rồi không thể rút chân ra được.
Nhưng Lưu Biểu Kinh Châu, Lưu Chương Ích châu lại là hạng vô năng.
Chu Du kiến nghị Tôn Kiên nên lệ binh mạt mã, tích súc quân tư. Nhân lúc tam đại quân phiệt ở phương bắc đang hỗn chiến không ngừng mà vượt sông thảo diệt Lưu Biểu, Lưu Chương. Có được Kinh Châu, Ích Châu, như vậy thì có thể vạch sông mà cai trị. Nếu thời cơ thỏa đáng (ví dụ như quân phiệt phương bắc vì nhiều năm hỗn chiến mà đại thương nguyên khí) thì có thể mang trăm vạn cường binh bắc phạt Trung Nguyên, nếu thời thế không thuận tiện (Chư hầu phương bắc bị một trong ba người Mã đồ tể, Tào Tháo, Viên Thiệu nhất thống), cũng có thể nhờ Trường Giang hiểm yếu để tự thủ.
Sách lược này của Chu Du có thể nói là rất có nhãn quang chiến lược.
Theo phát hiện nhạy cảm của Chu Du, chiến trường Trung Nguyên là một đầm bùn lầy, với thực lực hiện tại của Đông Ngô mà đầu nhập vào trong thì vị tất đã đạt được ích lợi. Hơn nữa Đông Ngô thiếu lực lượng có tính chiến lược để tranh giành Trung Nguyên. Đó chính là kỵ binh! mà dưới tiền đề không có đủ kỵ binh, quân Ngô tùy tiện bắc thượng Trung Nguyên là rất bất trí, đặc biệt là lúc đối diện với Mã đồ tể lấy kỵ binh để khởi nghiệp, càng ở vào thế yếu.
Nhưng Kinh Châu Lưu Biểu và Ích Châu Lưu Chương thì lại khác.
Trước tiên vị trí của Kinh Châu, Ích Châu là ở phương nam, đường sông ngang dọc, kênh rạch chằng chịt, vì vậy mà hai nơi này không thuận lợi để vận dụng kỵ binh. Hơn nữa lại có Trường Giang tương liên với Đông Ngô. Thủy quân Đông Ngô có thể men theo sông mà lên, trong chiến tranh mang tới tác dụng có tính quyết định. Sau khi công chiếm được Kinh Châu, Ích Châu rồi, Đông Ngô cũng có thể dựa vào đường sông, kênh rạch để chống đỡ lực lượng kỵ binh của quân phiệt phương bắc.
Sách lược này của Chu Du hoàn toàn là tránh được thế yếu về chiến lược của Đông Ngô, mà lại phát huy được ưu thế chiến lược của Đông Ngô tới cực trí.
Tôn Kiên tiếp thu kiến nghị của Chu Du, lấy trưởng tử Tôn Sách làm lục quân đại đô đốc đóng binh ở Lư Giang Thư huyện. Cho Chu Du làm thủy quân đại đô đốc đóng binh ở Hồ Khẩu. Đại Tướng Thái Sử Từ, Phan Chương, Chu Thái, Tưởng Khâm tới trước trướng nghe điều động, lại lệnh cho Trương Chiêu, Trương Hoành, Cố Ung, bắt tay xây dựng thủy lợi, chỉnh đốn nông nghiệp, mau chóng trữ bị lương thảo quân tư, thời khắc chuẩn bị công đánh Kinh Châu.
...
So sánh với thế như phá trúc của quân Ngô trên chiến trường Dương Châu thì quân Tào và quân Lữ Bố ở chiến trường Duyện Châu lại đánh tới mức nan giải nan phân. Có điều tới tháng năm năm Kiến An Hiến Đế thứ chín (196), chiến trường Đông quận và chiến trường Lương quốc đồng thời xuất hiện chuyển cơ! tại
Bắt đầu từ loạn khăn vàng năm Trung Bình Linh Đế thứ ba (84), chiến hỏa Dự Châu, Duyện Châu một mực chưa hề ngừng nghỉ. Chiến loạn nhiều năm dẫn tới nhân khẩu hai Châu này giảm mạnh, dân chúng lầm than. Một lượng lớn nhân khẩu thanh niên chết trận vẫn tạo thành sự thiệt hại có tính hủy diệt đối với sản xuất nông nghiệp.
Đây cũng là nguyên nhân lớn nhất mà Tào Tháo tuy nghênh đón và hầu hạ thiên tử, chiếm được đại nghĩa triều đình nhưng thủy chung vẫn ở thế yếu.
Có điều, đáng để thấy may mắn là Quách Gia (trong lịch sử chân thực là Mao Giai, đừng bị cuốn sách này làm nhầm) khi Tào Tháo sắp lâm vào tuyệt cảnh thì lại xuất hiện, đề xuất kế sách đồn điền cho Tào Tháo.
Cái gọi là đồn điền, dùng thuật ngữ hiện tại để giải thích thì chính là thành lập binh đoàn sản xuất và xây dựng. Cách làm của nó chính là thống nhất an trí bạo dân khăn vàng bị ép hàng và lưu dân chiêu mộ được lại với nhau, tiến hành quản lý quân sự hóa. Do chính phủ thống nhất đề cung các loại vật tư sản xuất như ruộng đất, dụng cụ nông canh, trâu cày, cây trồng. Để bạo dân khăn vàng và lưu dân xuất công xất lực tiến thành canh tác, lương thực sản xuất ra thì tiến hành chia năm năm hoặc là sáu bốn.
Đồn điền mà Mã đồ tể thực hiện ở bắc địa Hà Sáo kỳ thực cũng na ná như cách làm của Tào Tháo.
Lợi ích của đồn điền là rất kinh người.
Gánh nặng của bách tính thời Hán là rất lớn, tuyệt đại bộ phận thu hoạch đều phải dùng để nộp thuế ruộng, nhưng đại bộ phận đều bị địa chủ hào cường ở giữa khấu lưu, thuế ruộng nộp lên quốc khố chỉ còn một phần mười hoặc là một phần mười lăm. Lúc thuế nhẹ nhất thậm chí chỉ có một phần ba mươi!
Tới hậu kỳ Đông Hán, triều đình kỳ thực cũng muốn tăng thuế, nhưng đã không thể tăng thêm được nữa. Bởi vì thu hoạch của bách tính chỉ còn lại một hai phần, nếu còn tăng nữa thì lão bách tính sẽ không còn đường sống! Để bảo hộ lợi ích của mình, đại chủ hào cường thời Hán mạt và các sĩ tộc lực lượng trung kiên đều cùng nhau phải đối triều đình tăng thuế. Hoàn Đế, Linh Đế bị bức tới bất lực, mới nghĩ ra "cao chiêu" là bán quan. Kết quả là đẩy đế quốc Đại Hán cực thịnh một thời tới bờ diệt vong.
Đồn điền dưới tiền đề không chất thêm gánh nặng cho bách tính, khiến tiền lương thu được tăng lên mấy lần thậm chí là mấy chục lần, quốc khố được tăng cường hơn hiều. Lợi ích của nó từ đó cho thấy là rất không tầm thường. Chính bởi vì có cường lực của chế độ đồn điền giúp đỡ, Tào Tháo mới có thể đứng vững ở hai châu Duyên, Dự đói nghèo tới cực điểm này.
Tuy bốn mặt đều có cường địch, nhưng Tào Tháo vẫn đứng vững.
Lại nói Tào Tháo và Lữu Bố đang giằng co nhau ở Lương quốc thì nháy mắt đã tới tháng năm năm Kiến An thứ chín, đột nhiên phát hiện chiến cơ không ai ngờ tới xuất hiện. Quân Tào vì thiếu lương, bị bức vào Tựu cốc ở Hướng quận.
Bởi vì Lương quốc không có nông trường đồn điền. Nhân quân Tào đóng ở Bộc Dương cũng đối diện với khốn cục là thiếu thốn quân lương, không thể không mạo hiểm phái binh tới Tể Bắc quốc, Đông Bình quốc để cướp luá mì. Bởi vì Tể Bắc quốc, Đông Bình quốc đều có nông trường đồn điền. Quân Từ Châu của Tào Báo, Trương Liêu tuy đã công chiến Tể Bắc và Đông Bình, nhưng lại không phá hủy nông trường đồn điền, cũng không phái binh đóng giữ.
...
Trong đại trướng, Tào Tháo đang triệu tập đám văn võ tâm phúc Quách Gia, Tuân Du, Lưu Diệp, Quan Vũ, Tàng Bá tới nghị sự. Lưu Diệp phụ trách tình báo bước lên trước, nói: "Chúa công, thám mã hồi báo, Lữ Bố vẫn chưa suất lĩnh đại quân tiến công Hứa Đô mà lại suất lĩnh đại quân chiếm đóng Kiến Bình của huyện đông bắc."
Tới năm Kiến An Hán Hiến Đế thứ chín, trải qua chiến loạn trong thời gian dài. Thành trì trong biên giới Duyện Châu, Dự Châu đã bị tổn hại nghiêm trọng, trừ số ít mấy tòa thành như Hứa Xương, Bộc Dương ra, đại đa số thành trì khác đều đã tan vỡ bất kham, căn bản không có giá trị để chiếm lĩnh, giống như Kiến Bình, huyện đông bức mà Tào Tháo, Lữ Bố đóng binh hiện tại đều là thành trì bỏ hoang, căn bản chỉ làm được quân doanh mà thôi.
Tào Tháo vuốt râu cười nói: "Lữu Bố chí cao mà tài hèn, Công Đài thì lại là người thông minh."
Quách Gia nói: "Lữu Bố xuất quân chiếm giữ Kiến Bình, dụng ý của hắn không nghi ngờ gì nữa chính là phá rối Tựu cốc của quân ta. Chúa công sao không lợi dụng bố cục này, để kẻ thông minh lại bị thông minh hại, cuối cùng giết cho Lữ Bố hoa rơi nước chảy."
Tào Tháo mắt lộ ra vẻ kỳ dị, cười hỏi: "Không biết Phụng Hiếu có kế gì vậy?"
Quách Gia nói: "Đợi ngày mai, các quân không cần để ý đến kẻ địch ở Kiến Bình, cứ ra ngoài thu cắt lúa mạch như bình thường."
Tàng Bá nói: "Khi các quân ra ngoài thu lúa mạch, nếu Lữ Bố đột nhiên xuất quân đánh lén thì chư quân đều không kịp về đại doanh. Chúa công chẳng phải là gặp nguy sao?"
Quách gia nói: "Lữ Bố nếu dẫn quân đánh lén, tại hạ tự có tính toán."
Tàng Bá ôm quyền nói với Tào Tháo: "Chúa công, mạt tướng cho rằng cứ lưu lại một nhánh quân mã bảo hộ an nguy cho chúa công là tốt nhất."
"Không cần đâu, ha ha." Tào Tháo vuốt râu cười nói: "Thế nhân đều cho rằng cô giảo hoạt đa nghi, tuyệt sẽ không cho đối thủ cơ hội, lần này cô đột nhiên mở cửa, để cho đối thủ thời cơ. Công Đài tất nhiên sẽ hoài nghi, cho rằng trong đó có trá, chắc không dám tùy tiện vào thành, bản tướng vẫn sẽ vững như Thái Sơn thôi."
Chư tướng bất đắc dĩ chỉ đành vâng lời.
Tới ngày hôm sau, chư tướng mỗi người suất quân ra ngoài thu gặt lúc mạch, Tào Tháo chỉ lệnh cho Quan vũ dẫn năm trăm đao thủ lưu lại giữ doanh trại, lại lệnh cho hai trăm thần xạ thủ mai phục trong hai mảng rừng rậm ở hai bên ngoài thành, an bài xong tất cả, Tào Tháo lại thiết yến trong trướng, cùng bọn Quách Gia, Tuân Du đối ẩm.
Khi sắp đến giữa trưa, thám mã hồi báo, Lữ Bố quả nhiên dẫn quân tới tập doanh.
Tào Tháo mừng rỡ đứng bật dậy, cao giọng nói: "Quan Vũ ở đâu?"
Quan Vũ ứng tiếng bước vào trướng, ôm quyền nói: "Có mạt tướng."
Tào Tháo nói: "Dẫn năm trăm đao thủ bày trận ở ngoài thành."
Quan Vũ nói: "Tuân lệnh."
Nhìn bóng của Quan Vũ rời đi, Tào Tháo lại phân phó thân binh: "Người đâu, chuyển tiệc rượu lên thành lâu."
Đợi thân binh chuyển bàn rượu đi rồi, Tào Tháo mới vỗ vỗ tay, nói với Quách Gia, Tuân Du: "Phụng Hiếu, Công Đạt, theo cô tới thành lâu ẩm yến, có lưỡi mác của Lữ Bố trợ hứng chẳng phải là vui lắm sao."
Quách Gia, Tuân Du đồng thời chắp tay nói: "Mời chúa công."