Lư Giang, Thư huyện.
Lưu Mông, thành môn giáo úy năm nay mới tầm hai mươi tuổi bước vội vào dinh thự của Tôn Kiên, tay cầm một phong thư giản quỳ một chân xuống đất, cao giọng nói: "Chúa công, mạt tướng có chuyện cần bẩm báo!"
"Lữ Mông?" Tôn Kiên nói: "Chuyện gì?"
Lữ Mông nói: "Bộ tướng Quan Vũ của Tào Tháo từ Nhữ Nam sai khoái mã tới đưa thư!"
"Thư của Quan Vũ?" Tôn Kiên quay đầu lại trao đổi ánh mắt với Từ Thứ, trầm giọng nói: "Trình lên đi!"
Sớm đã có tiểu lại bước tới nhận lấy thư giản trong tay Lữ Mông rồi chạy tới bên cạnh Tôn Kiên. Tôn Kiên cầm lấy, bóc lớp dán bên ngoài thư giản rồi bóc ra. Tôn Kiên đọc xong thì sắc mặt đại biến, nói với Từ Thứ ở bên cạnh: "Quân sư, Hứa Xương xảy ra chuyện rồi!"
Từ Thứ nói: "Chúa công, xảy ra chuyện gì vậy?"
Tôn Kiên thuận tay đưa thư giản cho Từ Thứ, trầm giọng nói: "Quan Vũ nhân lúc Tào Tháo và Viên Thiệu giằng co ở Quan Độ, đột nhiên khởi binh tạo phản, giết về Hứa Xương bắc cóc thiên tử, bá quan và vợ con của Tào Tháo. Giờ chạy tới Nhữ Nam! Quan Vũ đưa thư nói, muốn lấy thiên tử làm hiến lễ để tự tiến cử đến dưới trướng cô."
"Quan Vũ là chuyện nhỏ, thiên tử mới là chuyện lớn, giờ thiên tử đã ở Nhữ Nam, chúa công hãy tự mình dẫn tinh binh tới nghênh đón!" Từ Thứ nói đến đây thì ngừng lại, nghĩ một chút rồi lại nói tiếp: "Thiên tử bị cướp, Tào Tháo tất sẽ không chịu để yên, Mã đồ tể có lẽ cũng sẽ quay mũi giáo lại vây đánh giành thiên tử, chiến trường Trung Nguyên sẽ biến ảo phong vân, tranh đoạt thiên tử rất có khả năng sẽ biến thành một trường đại hỗn chiến vô tiền khoáng hậu."
"Để có đủ binh lực nhằm ứng phó với trường đại hỗn chiến này, quân ta lập tức thủ tiêu hành động quân sự đối với Kinh Châu, để công tử Sách và Chu Du tướng quân suất lĩnh thủy lục đại quân quay về Lư Giang!" xem tại
Quan Độ.
Tinh kỳ phấp phới, gần năm vạn đại quân Lương Châu giống như dòng tháp chảy cuồn cuồng, ồ ạt tràn lên trước.
Trong đó có hai vạn tinh nhuệ đồn điền do Cao Thuận xuất lĩnh, tám trăm thiết kỵ do Từ Hoảng suất lĩnh, một vạn thủy quân do Cam Ninh xuất lĩnh, một vạn hàng quân Hán Trung do Phương Duyệt suất lĩnh (Phương Duyệt không tiếc trả giá lớn mãnh công Hàm Cốc quan, dẫn tới việc hàng quân Hán Trung tử thương thảm trọng, hao tổn gần một nửa). Nếu như tính thêm hai vạn đại quân Nam Dương, Mã Dược trước sau trong trận chiến này tổng công đầu nhập tám vạn đại quân.
Có điều hiện tại chỉ còn lại bảy vạn.
Nếu không tính tới ba bộ mười vạn thiết kỵ của Mạc Bắc Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu, Quản Khởi, đây cơ hồ là toàn bộ binh lực của quân đoàn Lương Châu thuộc quyền Mã đồ tể. Trừ năm ngàn quân của Hán Trung Trương Tú, ba vạn quân đội đồn điền còn lại của đại doanh Tây Hà ra, Sóc Châu, Lương Châu, Ung Châu tổng cộng chỉ có không tới một vạn quận tốt lưu thủ.
Trong ba vạn quân tinh nhuệ, một vạn thủy quân của Cam Ninh toàn bộ được bảo lưu, có thể thấy Mã đồ tể trọng thị thủy quân như thế nào.
Ngoại trừ ba vạn quân tinh nhuệ và kỵ binh Mạc Bắc, thì chỉ có năm vạn quân đồn điện do Cao Thuận suất lĩnh có thể tính là quân đội chính quy, về sau lại tăng thêm hai vạn hàng quân Tịnh Châu cùng với hai vạn hàng quân Hán Trung, có điều sau khi Hán Trung chi chiến kết thúc, hai vạn quân Tịnh Châu đã thương vong quá nửa, trước lúc Quan Độ chi chiến, tổng binh lực của Mã Dược là hơn mười một vạn người.
Trong đó, năm vạn binh đồn điền của Cao Thuận đóng tại đại doanh Tây Hà, hai vạn quân tinh nhuệ của Mã Siêu đóng ở quận Nam Dương, năm ngàn quân của Trương Tú đóng ở Hán Trung, tám ngàn quân của Từ Hoảng đóng ở Hà Đông, một vạn thủy quân của Cam Ninh đóng ở cảng Tân Phong, hai vạn hàng quân Hán Trung của Phương Duyệt đóng ở đại doanh Trường An.
Mã đồ tể tổng cộng chỉ có mười một vạn quân đội, nhưng điều động tám vạn đại quân công đánh Tào Tháo, có thể nói là không tiếc vốn liếng.
Có điều, cho dù Mã đồ tể điều động tám vạn đại quân, cũng không hề ảnh hưởng tới sự nghỉ ngơi dưỡng sức, bởi vì Mã đồ tể vẫn chưa tiến hành chinh binh với quy mô lớn ở các châu dưới sự cai trị của hắn, lại nghỉ ngơi mấy năm nay. Mã Dược cũng không ngừng chinh chiến, nhưng đều là tác chiến với bên ngoài, chiến hỏa chưa từng lan tới các châu dưới quyền cai trị của hắn, hơn nữa đều là chiến tranh quy mô nhỏ, cho nên binh lực hao tổn do chiến tranh mang lại cũng không nhiều, không hề tạo thành tiêu hao lớn đối với lực lượng thanh niên tinh tráng, cho nên không hề tạo thành bất kỳ ảnh hưởng gì đối với công nông nghiệp.
Đương nhiên, muốn duy trì chi phí của tám vạn quân đội, quân lương phải tiêu hao đương nhiên là khá kinh người.
Song, chuyện gì có hại thì tất sẽ có lợi, tám vạn quân Lương tiêu tốn rất nhiều lương thực và quân giới, nhưng cũng khiến sự sản xuất và mậu dịch vũ khí, lương thực của Quan Trung phồn vinh chưa từng có. Do Mã đồ tể đặc biệt bồi dưỡng công thương nghiệp, lại không ngừng nâng cao địa vị của thương nhân trong xã hội đương thời, khích lệ thương nhân tử đệ tòng chinh, tòng quân, từ đó tạo thành cục diện cực thịnh của công thương nghiệp Quan Trung.
Vì thương nhân có rất nhiều lợi ích khi có chiến tranh xảy ra, cho nên bắt đầu không ngừng ủng hộ quân đoàn Lương Châu tác chiến đối với bên ngoài.
Do đó, tạo thành sự hình thành sơ bộ của hai nguyên nhân lớn mà quân đoàn Lương Châu trong vòng mấy trăm năm về sau liên tục không ngừng phát khởi hành động khuếch trương quân sự quy mô lớn đối với bên ngoài. Thứ nhất chính là ba bộ Mạc Bắc vì món lợi mậu dịch nhân khẩu kếch sù mà tiến hành cướp bóc nhân khẩu một cách vô nhân đạo đối với địa khu và dân tộc ở xung quanh. Thương nhân lương thực vì truy cầu lợi nhuận, không ngừng gây chia rẽ và ủng hộ quân đoàn Lương Châu phát khởi xâm lược vũ trang đối với bên ngoài.
Mà tới giữa giai đoạn sau, võ trang quân sự của ba bộ Mạc Bắc càng trực tiếp móc ngoặc chặt chẽ với các tên trùm vũ khí, lương thực. Bởi vì nô đãi mà ba bộ Mạc Bắc cướp đoạt được vừa hay có thể cung cấp cho chủ công, nông trường của Trung Nguyên. Các chủ công, nông trường lao vào sản xuất vũ khí, lương thực, vũ khí và lương thực mà các trùm thương nghiệp sản xuất ra trái lại có thể duy trì ba bộ Mạc Bắc tiến hành cướp đoạt nhân khẩu đối với bên ngoài.
Sự hình thành của hai loại nguyên nhân này, hậu quả trực tiếp của nó chính là sau mấy chục năm sẽ thúc đẩy sự xuất hiện của một đế quốc khổng lồ, vượt qua ba Châu Á, Âu, Phi, diện tích lãnh thổ đạt tới hơn ba ngàn vạn mét vuông. Đó chính là Đại Lương đế quốc! Các sử học gia bằng lòng liên hệ tám trăm năm Lương triều và bốn trăm năm Hán triều lại với nhau, hợp xưng là Hán Lương thịnh thế.
Trước trận của quân Lương, Cao Thuận ở phía trước, Phương Duyệt, Từ Hoảng, Cam Ninh xếp hàng đằng sau, giục ngựa từ từ tiến lên trước. Ở tiền phương có một người phi ngựa như bay, nhanh như điện chớp xông tới trước mặt bốn người rồi ghìm ngựa lại. Tọa kỵ khỏe mạnh ở bên dưới lập tức đứng thẳng lên, vó trước đá loạn một trận trên không trung, sau đó mới từ từ hạ xuống đất, đứng yên bất động.
Mã Đại trẻ tuổi ngồi trên lưng ngựa, chắp tay nói với bốn người bọn Cao Thuận: "Tham kiếm bốn vị tướng quân!"
Cao Thuận chắp tay nói: "Thiếu tướng quân miễn lễ, tình hình Quan Độ thế nào rồi?"
Mã Đại nói: "Tướng quân, tình hình Quan Độ vô cùng cổ quái!"
"Hả?" Cao Thuận nói: "Thiếu tướng quân thử nói ra xem nào."
Mã Đại nói: "Quân Viên, quân Tào đều thành cao hào sâu, đóng doanh không ra ngoài, căn bản là không hề mắng chửi, khiêu chiến với nhau. Mạt tướng từng dẫn mấy trăm thiết kỵ tới trước doanh của quân Tào khiêu khích, nhưng quân Tào vẫn đóng cửa không ra, căn bản là không thèm để ý. Mà Đại doanh của Viên Thiệu cách đó chục dặm cũng là một mảng yên tĩnh, không hề có chút phản ứng nào."
Cao Thuận nói: "Không ngờ lại có loại chuyện đó?"
Mã Đại nói: "Mạt tướng không dò ra được hư thực của quân Tào và thái độ của quân Viên Thiệu, vì thế không dám khinh cử vọng động."
Cao Thuận quay đầu lại nói với Phương Duyệt, Từ Hoảng, Cam Ninh: "Ba vị tướng quân cùng bản tướng quân tới đại doanh của quân Tào quan sát một phen, xem quân Tào rốt cuộc là đang dở trò gì?"
Bốn người dắt ba ngàn thiết kỵ, dưới sự dẫn đường của Mã Đại trèo lên một tòa núi đất vô danh ở phía tây đại doanh của quân Tào.
Từ trên núi đất nhìn xuống, chỉ thấy trong đại doanh của quân Tào tinh kỳ phấp phới, tiếng trống mơ hồ, từng đội từng đội giáp sĩ cầm giáo đang đi đi lại lại tuần tra ở trong doanh trại và trên viên môn. Xem ra sự giới bị của quân Tào vô cùng sâm nghiêm, nhưng Cao Thuận lại cảm thấy có gì đó bất thường! Ra lệnh cho Mã Đại suất lĩnh năm trăm thiết kỵ tới trước doanh khiêu chiến, nhưng quân Tào quả nhiên là không có chút phản ứng nào.
Bốn người tới ngoài đại doanh của quân Viên cách đó về phía bắc mười dặm để kiểm tra, phát hiện đại doanh của quân Viên và đại doanh của quân Tào giống hệt như nhau. Mã Đại suất lĩnh thiết kỵ nghênh ngang đi qua ngoài doanh trại, quân Hà Bắc không ngờ lại không hề phái một ai ra tra hỏi. Khi ánh mắt của Cao Thuận cuối cùng rơi trên chiến trường lộn xộn ở ngoài doanh trại của quân Hà Bắc thì đột nhiên hét lớn: "Không ổn rồi, quân Hà Bắc e rằng đã thua trận, quân Tào sau khi chiến thắng đã rời khỏi Quan Độ rồi! Hai tòa đại doanh này chỉ là doanh rỗng, trong doanh chỉ có một số ít nghi binh thôi!"
Cam Ninh nói: "Sao tướng quân biết?"
Cao Thuận nói: "Quân Tào giống như quân ta, đều mặc giáp sắt. Còn quân Hà Bắc thì vì Viên Thiệu thích nên đều mặc giáp đồng. Giáp sắt thì đen bóng, giáp đồng thì sáng loáng, cực kỳ dễ phân biệt. Chư vị nhìn bên ngoài đại doanh Hà Bắc đi, trong chiến hào chỉ có thi thể của quân Hà Bắc nằm la liệt, nhưng lại không hề phát hiện ra thi thể của tướng sĩ quân Tào, điều này chứng minh cái gì?"
"Quân Tào không phải là thiên binh thiên tướng, đã là chiến tranh thì không thể không có thương vong!" Từ Hoảng nói: "Vậy chỉ có một loại khả năng, đó chính là thi thể của tướng sĩ chết trận bên quân Tào đã được đồng bạn mang đi chôn cất rồi. Do đó, đại doanh Hà Bắc trên thực tế đã bị quân Tào công phá. Quân Tào chỉ có sau khi khống chế được đại doanh Hà Bắc mới có thể ung dung thu thập thi thể của tướng sĩ chết trận mà mang đi mai táng thôi!"
Cam Ninh nói: "Nói vậy Viên Thiệu quả nhiên đã chiến bại rồi! Nhưng không biết quân Tào đi đâu rồi? Chẳng lẽ là thừa thắng truy kích, giết tới hang ổ của Viên Thiệu ư?"
"Trước khi chưa có tin tức chính xác, bất kỳ tình hình nào cũng có khả năng xảy ra!" Cao Thuận trầm giọng nói: "Mọi người nghe lệnh!"
Phương Duyệt, Từ Hoảng, Cam Ninh, Mã Đại bốn tướng đồng thời ưỡn thẳng ngực, ánh mắt sáng quắc nhìn chằm chằm vào Cao Thuận. Cao Thuận không những được Mã Dược chỉ định làm chủ tướng của ba quân, mà còn là danh tướng được bọn họ vui lòng phục tùng.
"Thiếu tướng quân Mã Đại!"
"Có mạt tướng."
"Phái thêm thám mã du kỵ, mở rộng phạm vi trinh sát tới phương viên một trăm dặm của Quan Độ, có phát hiện gì thì lập tức báo về ngay."
"Tuân lệnh."
"Từ Hoảng tướng quân!"
"Có mạt tướng."
"Dẫn tám ngàn thiết kỵ bảo hộ đường vận lương từ Hổ Lao quan tới Dĩnh Xuyên. Tuyệt không thể để quân Tào cắt đường lui của ta!"
"Tuân lệnh."
"Phương Duyệt tướng quân, Cam Ninh tướng quân."
"Có mạt tướng."
Lưu Mông, thành môn giáo úy năm nay mới tầm hai mươi tuổi bước vội vào dinh thự của Tôn Kiên, tay cầm một phong thư giản quỳ một chân xuống đất, cao giọng nói: "Chúa công, mạt tướng có chuyện cần bẩm báo!"
"Lữ Mông?" Tôn Kiên nói: "Chuyện gì?"
Lữ Mông nói: "Bộ tướng Quan Vũ của Tào Tháo từ Nhữ Nam sai khoái mã tới đưa thư!"
"Thư của Quan Vũ?" Tôn Kiên quay đầu lại trao đổi ánh mắt với Từ Thứ, trầm giọng nói: "Trình lên đi!"
Sớm đã có tiểu lại bước tới nhận lấy thư giản trong tay Lữ Mông rồi chạy tới bên cạnh Tôn Kiên. Tôn Kiên cầm lấy, bóc lớp dán bên ngoài thư giản rồi bóc ra. Tôn Kiên đọc xong thì sắc mặt đại biến, nói với Từ Thứ ở bên cạnh: "Quân sư, Hứa Xương xảy ra chuyện rồi!"
Từ Thứ nói: "Chúa công, xảy ra chuyện gì vậy?"
Tôn Kiên thuận tay đưa thư giản cho Từ Thứ, trầm giọng nói: "Quan Vũ nhân lúc Tào Tháo và Viên Thiệu giằng co ở Quan Độ, đột nhiên khởi binh tạo phản, giết về Hứa Xương bắc cóc thiên tử, bá quan và vợ con của Tào Tháo. Giờ chạy tới Nhữ Nam! Quan Vũ đưa thư nói, muốn lấy thiên tử làm hiến lễ để tự tiến cử đến dưới trướng cô."
"Quan Vũ là chuyện nhỏ, thiên tử mới là chuyện lớn, giờ thiên tử đã ở Nhữ Nam, chúa công hãy tự mình dẫn tinh binh tới nghênh đón!" Từ Thứ nói đến đây thì ngừng lại, nghĩ một chút rồi lại nói tiếp: "Thiên tử bị cướp, Tào Tháo tất sẽ không chịu để yên, Mã đồ tể có lẽ cũng sẽ quay mũi giáo lại vây đánh giành thiên tử, chiến trường Trung Nguyên sẽ biến ảo phong vân, tranh đoạt thiên tử rất có khả năng sẽ biến thành một trường đại hỗn chiến vô tiền khoáng hậu."
"Để có đủ binh lực nhằm ứng phó với trường đại hỗn chiến này, quân ta lập tức thủ tiêu hành động quân sự đối với Kinh Châu, để công tử Sách và Chu Du tướng quân suất lĩnh thủy lục đại quân quay về Lư Giang!" xem tại
Quan Độ.
Tinh kỳ phấp phới, gần năm vạn đại quân Lương Châu giống như dòng tháp chảy cuồn cuồng, ồ ạt tràn lên trước.
Trong đó có hai vạn tinh nhuệ đồn điền do Cao Thuận xuất lĩnh, tám trăm thiết kỵ do Từ Hoảng suất lĩnh, một vạn thủy quân do Cam Ninh xuất lĩnh, một vạn hàng quân Hán Trung do Phương Duyệt suất lĩnh (Phương Duyệt không tiếc trả giá lớn mãnh công Hàm Cốc quan, dẫn tới việc hàng quân Hán Trung tử thương thảm trọng, hao tổn gần một nửa). Nếu như tính thêm hai vạn đại quân Nam Dương, Mã Dược trước sau trong trận chiến này tổng công đầu nhập tám vạn đại quân.
Có điều hiện tại chỉ còn lại bảy vạn.
Nếu không tính tới ba bộ mười vạn thiết kỵ của Mạc Bắc Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu, Quản Khởi, đây cơ hồ là toàn bộ binh lực của quân đoàn Lương Châu thuộc quyền Mã đồ tể. Trừ năm ngàn quân của Hán Trung Trương Tú, ba vạn quân đội đồn điền còn lại của đại doanh Tây Hà ra, Sóc Châu, Lương Châu, Ung Châu tổng cộng chỉ có không tới một vạn quận tốt lưu thủ.
Trong ba vạn quân tinh nhuệ, một vạn thủy quân của Cam Ninh toàn bộ được bảo lưu, có thể thấy Mã đồ tể trọng thị thủy quân như thế nào.
Ngoại trừ ba vạn quân tinh nhuệ và kỵ binh Mạc Bắc, thì chỉ có năm vạn quân đồn điện do Cao Thuận suất lĩnh có thể tính là quân đội chính quy, về sau lại tăng thêm hai vạn hàng quân Tịnh Châu cùng với hai vạn hàng quân Hán Trung, có điều sau khi Hán Trung chi chiến kết thúc, hai vạn quân Tịnh Châu đã thương vong quá nửa, trước lúc Quan Độ chi chiến, tổng binh lực của Mã Dược là hơn mười một vạn người.
Trong đó, năm vạn binh đồn điền của Cao Thuận đóng tại đại doanh Tây Hà, hai vạn quân tinh nhuệ của Mã Siêu đóng ở quận Nam Dương, năm ngàn quân của Trương Tú đóng ở Hán Trung, tám ngàn quân của Từ Hoảng đóng ở Hà Đông, một vạn thủy quân của Cam Ninh đóng ở cảng Tân Phong, hai vạn hàng quân Hán Trung của Phương Duyệt đóng ở đại doanh Trường An.
Mã đồ tể tổng cộng chỉ có mười một vạn quân đội, nhưng điều động tám vạn đại quân công đánh Tào Tháo, có thể nói là không tiếc vốn liếng.
Có điều, cho dù Mã đồ tể điều động tám vạn đại quân, cũng không hề ảnh hưởng tới sự nghỉ ngơi dưỡng sức, bởi vì Mã đồ tể vẫn chưa tiến hành chinh binh với quy mô lớn ở các châu dưới sự cai trị của hắn, lại nghỉ ngơi mấy năm nay. Mã Dược cũng không ngừng chinh chiến, nhưng đều là tác chiến với bên ngoài, chiến hỏa chưa từng lan tới các châu dưới quyền cai trị của hắn, hơn nữa đều là chiến tranh quy mô nhỏ, cho nên binh lực hao tổn do chiến tranh mang lại cũng không nhiều, không hề tạo thành tiêu hao lớn đối với lực lượng thanh niên tinh tráng, cho nên không hề tạo thành bất kỳ ảnh hưởng gì đối với công nông nghiệp.
Đương nhiên, muốn duy trì chi phí của tám vạn quân đội, quân lương phải tiêu hao đương nhiên là khá kinh người.
Song, chuyện gì có hại thì tất sẽ có lợi, tám vạn quân Lương tiêu tốn rất nhiều lương thực và quân giới, nhưng cũng khiến sự sản xuất và mậu dịch vũ khí, lương thực của Quan Trung phồn vinh chưa từng có. Do Mã đồ tể đặc biệt bồi dưỡng công thương nghiệp, lại không ngừng nâng cao địa vị của thương nhân trong xã hội đương thời, khích lệ thương nhân tử đệ tòng chinh, tòng quân, từ đó tạo thành cục diện cực thịnh của công thương nghiệp Quan Trung.
Vì thương nhân có rất nhiều lợi ích khi có chiến tranh xảy ra, cho nên bắt đầu không ngừng ủng hộ quân đoàn Lương Châu tác chiến đối với bên ngoài.
Do đó, tạo thành sự hình thành sơ bộ của hai nguyên nhân lớn mà quân đoàn Lương Châu trong vòng mấy trăm năm về sau liên tục không ngừng phát khởi hành động khuếch trương quân sự quy mô lớn đối với bên ngoài. Thứ nhất chính là ba bộ Mạc Bắc vì món lợi mậu dịch nhân khẩu kếch sù mà tiến hành cướp bóc nhân khẩu một cách vô nhân đạo đối với địa khu và dân tộc ở xung quanh. Thương nhân lương thực vì truy cầu lợi nhuận, không ngừng gây chia rẽ và ủng hộ quân đoàn Lương Châu phát khởi xâm lược vũ trang đối với bên ngoài.
Mà tới giữa giai đoạn sau, võ trang quân sự của ba bộ Mạc Bắc càng trực tiếp móc ngoặc chặt chẽ với các tên trùm vũ khí, lương thực. Bởi vì nô đãi mà ba bộ Mạc Bắc cướp đoạt được vừa hay có thể cung cấp cho chủ công, nông trường của Trung Nguyên. Các chủ công, nông trường lao vào sản xuất vũ khí, lương thực, vũ khí và lương thực mà các trùm thương nghiệp sản xuất ra trái lại có thể duy trì ba bộ Mạc Bắc tiến hành cướp đoạt nhân khẩu đối với bên ngoài.
Sự hình thành của hai loại nguyên nhân này, hậu quả trực tiếp của nó chính là sau mấy chục năm sẽ thúc đẩy sự xuất hiện của một đế quốc khổng lồ, vượt qua ba Châu Á, Âu, Phi, diện tích lãnh thổ đạt tới hơn ba ngàn vạn mét vuông. Đó chính là Đại Lương đế quốc! Các sử học gia bằng lòng liên hệ tám trăm năm Lương triều và bốn trăm năm Hán triều lại với nhau, hợp xưng là Hán Lương thịnh thế.
Trước trận của quân Lương, Cao Thuận ở phía trước, Phương Duyệt, Từ Hoảng, Cam Ninh xếp hàng đằng sau, giục ngựa từ từ tiến lên trước. Ở tiền phương có một người phi ngựa như bay, nhanh như điện chớp xông tới trước mặt bốn người rồi ghìm ngựa lại. Tọa kỵ khỏe mạnh ở bên dưới lập tức đứng thẳng lên, vó trước đá loạn một trận trên không trung, sau đó mới từ từ hạ xuống đất, đứng yên bất động.
Mã Đại trẻ tuổi ngồi trên lưng ngựa, chắp tay nói với bốn người bọn Cao Thuận: "Tham kiếm bốn vị tướng quân!"
Cao Thuận chắp tay nói: "Thiếu tướng quân miễn lễ, tình hình Quan Độ thế nào rồi?"
Mã Đại nói: "Tướng quân, tình hình Quan Độ vô cùng cổ quái!"
"Hả?" Cao Thuận nói: "Thiếu tướng quân thử nói ra xem nào."
Mã Đại nói: "Quân Viên, quân Tào đều thành cao hào sâu, đóng doanh không ra ngoài, căn bản là không hề mắng chửi, khiêu chiến với nhau. Mạt tướng từng dẫn mấy trăm thiết kỵ tới trước doanh của quân Tào khiêu khích, nhưng quân Tào vẫn đóng cửa không ra, căn bản là không thèm để ý. Mà Đại doanh của Viên Thiệu cách đó chục dặm cũng là một mảng yên tĩnh, không hề có chút phản ứng nào."
Cao Thuận nói: "Không ngờ lại có loại chuyện đó?"
Mã Đại nói: "Mạt tướng không dò ra được hư thực của quân Tào và thái độ của quân Viên Thiệu, vì thế không dám khinh cử vọng động."
Cao Thuận quay đầu lại nói với Phương Duyệt, Từ Hoảng, Cam Ninh: "Ba vị tướng quân cùng bản tướng quân tới đại doanh của quân Tào quan sát một phen, xem quân Tào rốt cuộc là đang dở trò gì?"
Bốn người dắt ba ngàn thiết kỵ, dưới sự dẫn đường của Mã Đại trèo lên một tòa núi đất vô danh ở phía tây đại doanh của quân Tào.
Từ trên núi đất nhìn xuống, chỉ thấy trong đại doanh của quân Tào tinh kỳ phấp phới, tiếng trống mơ hồ, từng đội từng đội giáp sĩ cầm giáo đang đi đi lại lại tuần tra ở trong doanh trại và trên viên môn. Xem ra sự giới bị của quân Tào vô cùng sâm nghiêm, nhưng Cao Thuận lại cảm thấy có gì đó bất thường! Ra lệnh cho Mã Đại suất lĩnh năm trăm thiết kỵ tới trước doanh khiêu chiến, nhưng quân Tào quả nhiên là không có chút phản ứng nào.
Bốn người tới ngoài đại doanh của quân Viên cách đó về phía bắc mười dặm để kiểm tra, phát hiện đại doanh của quân Viên và đại doanh của quân Tào giống hệt như nhau. Mã Đại suất lĩnh thiết kỵ nghênh ngang đi qua ngoài doanh trại, quân Hà Bắc không ngờ lại không hề phái một ai ra tra hỏi. Khi ánh mắt của Cao Thuận cuối cùng rơi trên chiến trường lộn xộn ở ngoài doanh trại của quân Hà Bắc thì đột nhiên hét lớn: "Không ổn rồi, quân Hà Bắc e rằng đã thua trận, quân Tào sau khi chiến thắng đã rời khỏi Quan Độ rồi! Hai tòa đại doanh này chỉ là doanh rỗng, trong doanh chỉ có một số ít nghi binh thôi!"
Cam Ninh nói: "Sao tướng quân biết?"
Cao Thuận nói: "Quân Tào giống như quân ta, đều mặc giáp sắt. Còn quân Hà Bắc thì vì Viên Thiệu thích nên đều mặc giáp đồng. Giáp sắt thì đen bóng, giáp đồng thì sáng loáng, cực kỳ dễ phân biệt. Chư vị nhìn bên ngoài đại doanh Hà Bắc đi, trong chiến hào chỉ có thi thể của quân Hà Bắc nằm la liệt, nhưng lại không hề phát hiện ra thi thể của tướng sĩ quân Tào, điều này chứng minh cái gì?"
"Quân Tào không phải là thiên binh thiên tướng, đã là chiến tranh thì không thể không có thương vong!" Từ Hoảng nói: "Vậy chỉ có một loại khả năng, đó chính là thi thể của tướng sĩ chết trận bên quân Tào đã được đồng bạn mang đi chôn cất rồi. Do đó, đại doanh Hà Bắc trên thực tế đã bị quân Tào công phá. Quân Tào chỉ có sau khi khống chế được đại doanh Hà Bắc mới có thể ung dung thu thập thi thể của tướng sĩ chết trận mà mang đi mai táng thôi!"
Cam Ninh nói: "Nói vậy Viên Thiệu quả nhiên đã chiến bại rồi! Nhưng không biết quân Tào đi đâu rồi? Chẳng lẽ là thừa thắng truy kích, giết tới hang ổ của Viên Thiệu ư?"
"Trước khi chưa có tin tức chính xác, bất kỳ tình hình nào cũng có khả năng xảy ra!" Cao Thuận trầm giọng nói: "Mọi người nghe lệnh!"
Phương Duyệt, Từ Hoảng, Cam Ninh, Mã Đại bốn tướng đồng thời ưỡn thẳng ngực, ánh mắt sáng quắc nhìn chằm chằm vào Cao Thuận. Cao Thuận không những được Mã Dược chỉ định làm chủ tướng của ba quân, mà còn là danh tướng được bọn họ vui lòng phục tùng.
"Thiếu tướng quân Mã Đại!"
"Có mạt tướng."
"Phái thêm thám mã du kỵ, mở rộng phạm vi trinh sát tới phương viên một trăm dặm của Quan Độ, có phát hiện gì thì lập tức báo về ngay."
"Tuân lệnh."
"Từ Hoảng tướng quân!"
"Có mạt tướng."
"Dẫn tám ngàn thiết kỵ bảo hộ đường vận lương từ Hổ Lao quan tới Dĩnh Xuyên. Tuyệt không thể để quân Tào cắt đường lui của ta!"
"Tuân lệnh."
"Phương Duyệt tướng quân, Cam Ninh tướng quân."
"Có mạt tướng."