Chương 2: Đoạt Mệnh Kim Tiền
Gió bên ngoài cứ rít lên từng chập, trong ngôi “Tửu điếm” tuy người ấm áp, tuy không đến lạnh, nhưng có nhiều kẻ đã hơi run.
Có nhiều người ngồi không muốn yên, họ nhổm qua nhổm lại mặc dầu không có con rệp nào dưới ghế.
Có nhiều người trong bụng muốn lõng ra dông tuốt cho yên chuyện nhưng khổ nỗi trên mặt họ đã lỡ sơn quá nhiều “sĩ diện” bây giờ thì tiếc, mà để y như thế thì rung.
Hồ Phi, người trên mặt có nhiều lông trắng vụt đứng lên bước lại bàn của anh em họ Hàn và khẽ vòng tay:
- Uy danh của “Nam Dương song hổ” từ lâu đã làm cho bọn tại hạ ngưỡng mộ.
“Đại Hổ” Hàn Ban lật đật đáp lễ:
- Không dám.
“Nhị Hổ” Hàn Minh cũng nói theo luôn:
- Huynh muội của Hồ đại hiệp và Hồ cô nương khinh công song tuyệt, chính anh em chúng tôi muốn được hân hạnh diện kiến lâu rồi, nhưng hiềm vì chưa được duyên may.
Hồ Phi lại vòng tay:
- Hàn nhị hiệp quá khen cho.
Bên kia bàn, “Thủy Xà” Hồ Mỵ cũng vội khép nép “uốn mình” thi lễ.
Hồ Phi nói tiếp:
- Nếu nhị vị không trách đệ là mạo muội thì dám xin thỉnh sang bàn để cùng chung chén cho vui. Không biết nhị vị đại hiệp có hoan hỉ chăng?
Hàn Ban tươi cười:
- Anh em chúng tôi rất mong được như thế ấy.
Thế là hai tốp người đã nhập lại một bàn. Có lẽ đôi bên cùng đã nhận được một thực trạng.
Hai phe phái tuy đều găng nhau, nhưng khi họ cùng lâm đại địch, thì phương cách hay nhất là hãy xóa bỏ hiềm khích nhỏ nhen, họp nhau để định kế an toàn.
Họ cùng nâng chén và Hồ Phi nói trước:
- Nhị vị đã ở lâu miền Quảng Đông, anh em chúng tôi từ thuở trước đến nay lẩn quẩn trong dãy Giang Hoài, thật không hiểu tại sao có người lại muốn gây sự với chúng ta cùng một lúc?
Hàn Ban nói:
- Chính điều đó mà tại hạ cũng vô cùng thắc mắc.
Hồ Phi nói:
- Nghe cách nói của vị bằng hữu kia thì người muốn giết chúng ta chắc phải là võ công cao lắm, có thể chúng ta quả thật không phải là đối thủ của hắn, nhưng.
Hắn bỗng bật cười và nói tiếp:
- Một cây làm chẳng nên non, nhưng nếu ba cây chụm lại thì... hà hà... thì vấn đề nhất định là đổi khác. Hợp sức lực của sáu người trong bọn chúng ta, chẳng lẽ một cái đỡ gạt cũng không làm nổi hay sao?
Thần sắc của anh em họ Hàn lập tức có chiều thay đổi.
Hàn Ban lớn giọng hơn một chút:
- Hồ huynh nói rất hay, sáu người của bọn ta đâu phải là kẻ bất tài vô tướng, chẳng lẽ cam tâm cúi đầu cho chúng chém hay sao?
Hắn nói bằng tia mắt nghiêng về phía tên mặt có bớt xanh, nhưng gã này lại như không buồn nghe thấy.
Hàn Minh cất giọng ôn tồn:
- Người ta nói “nước chảy thì đấp bờ, binh tới thì tướng ngăn”. Họ không đến thì thôi, còn nếu họ đến thì... Hà hà...
Giọng cười trong trẻo của Hồ Mỵ cũng tiếp liền theo:
- Nếu quả thật họ đến thì sẽ không bao giờ có cơ hội quay trở về.
Đúng là “người đông làm cho chí lớn”, bọn Đoàn Khai Sơn và Dương Thừa Tổ cũng chợt nghe hào khí hừng hừng.
Sáu người họp lại, anh một câu, tôi một câu, anh một chén, tôi một chén... họ thi đua tâng bốc nhau, riết một hồi xem ra người nào cũng trở thành vĩ đại.
Ngay lúc bên trong tinh thần hứng khởi thì bên ngoài cửa, một tiếng cười khô khốc nổi lên.
Sáu người hào khí đang bốc ngất trời, thoáng cái chợt xìu ngay, da mặt họ tái xanh và cổ họng như bị ai chận chẹn.
Chẳng những họ không còn nói được một lời nào, mà cả hơi thở cũng hình như ngưng lại.
Lão Tôn Gù nghe tiếng cười ấy vốn đã nổi da gà nhưng thấy cách sợ của sáu bậc “vĩ nhân” đang ngồi tán nhau từ nãy khiến cho lão chợt thấy rằng mình bỗng vọt lên ngang hàng với họ và cùng với họ đưa mắt ra ngoài.
Ở bên ngoài xuất hiện bốn người.
Cả bốn người đều mặc một chiếc áo vàng lợt như nhau, một người mày rậm mắt to, một người mũi quặc như mỏ chim ưng, chính là hai người khách đã mua lời nói của lão Tôn Gù hồi ban sáng.
Họ đã đến cửa nhưng họ không vào, họ đứng xuôi tay im lặng trông thật hiền khô.
Có một điều mà lão Tôn Gù không làm sao hiểu được là vừa rồi sáu người ngồi trong quán đúng là những nhân vật khí thế đang lên rõ ràng, lời lẽ của họ vẫn còn hơi hám “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, thịnh khí đó của họ hãy còn đang lùng bùng trong lỗ tai lão, thế mà bằng vào sự có mặt của những tên áo vàng đứng xuôi lơ như thế mà lại làm cho họ xanh máu mặt.
Thế thì bốn tên áo vàng đó là ai?
Họ cũng là người chứ đâu phải là ma quỷ?
Còn nếu bảo rằng họ là những kẻ có tên tuổi giang hồ thì vừa rồi sáu nhân vật “vĩ đại” trong kia đã chẳng nói “binh tới thì tướng đương” đó sao?
Nhưng chính lão Tôn Gù bây giờ lại không cảm nghe sợ sệt gì cả, lão không bể nồi cơm, nếu có xảy ra sự lộn xộn trong quán lão, lão tự tin vì lão có một người bạn mà lão không thấy tài nghệ ra sao nhưng tự nhiên lão tin tưởng một cách lạ lùng. Người bạn mà lão tin tưởng ấy đang ngồi nhắm rượu làm thinh như không nghe thấy chuyện gì đã xảy ra, người ấy là Tửu Quỷ.
Cái lạ thứ hai là ông cháu lão già tóc bạc chuyên kể chuyện cho thiên hạ nghe lúc nãy, ông thì coi gần như sắp xuống lỗ, cháu thì là một cô gái non xéo coi giống như mới vừa dứt sữa chưa được bao lâu thế mà trước không khí ngột ngạt nãy giờ, hai ông cháu vẫn điềm nhiên không mảy may sợ sệt.
Tình hình nghẹt thở như thế này mà họ vẫn ngồi nhấm nháp như không.
Hay là họ, hai ông cháu nhà kia là loại ếch ngồi đáy giếng?
Vì họ không hiểu nên họ không biết sợ là gì?
Bốn người áo vàng bỗng dạt ra chừa một khoảng đường chính giữa.
Thêm một gã thiếu niên từ ngoài đi vào thẳng trong quán.
Tên này cũng mặc áo vàng chói lói, chỗ khác của hắn là tuổi nhỏ, phong độ thành nhã và cái khác về hình thức đối với bốn tên áo vàng đến trước là áo hắn có viền kim tuyến chiếu sáng ngời người.
Hắn là một thiếu niên khôi ngô, nhưng mặt hắn căm căm như băng giá, hắn không lộ một chút tình cảm nào bất cứ ai, hắn đi vào bằng những bước chân chậm rãi và mắt hắn nhìn châm bẩm vào mặt người có cái bớt xanh.
Người mặt có bớt xanh lại cứ ngồi uống rượu tự nhiên như không thấy hắn.
Vành môi của gã thiếu niên áo vàng khẽ nhếch lên với nụ cười lạnh nhạt, hắn chầm chậm đi qua khỏi chỗ người mặt có bớt và dời tia mắt về phía bàn có sáu người của bọn Dương Thừa Tổ.
Trông dáng cách bên ngoài, sáu người của bọn Dương Thừa Tổ có vẻ hung hãn hơn gã thiếu niên nhưng tia mắt của tên áo vàng đã làm cho thay chân của họ cảm giác bủn rủn, họ ngồi xem chừng không vững nữa.
Gã thiếu niên áo vàng chầm chậm đi vòng bàn của sáu người, không biết từ bao giờ hắn móc từ trong mình ra những đồng tiền chói sắc đồng lóng lánh, hắn thong thả đặt lên đầu của mỗi người một đồng tiền.
Sáu bậc “vĩ nhân” hồi nãy khẩu khí xung thiên mới rành rành đây thế mà bây giờ bỗng biến thành những hình cây tượng đá.
Họ mở mắt thao láo nhìn người đặt đồng tiền lên đầu mình mà lặng trang không dám động.
Còn thừa lại mấy đồng tiền trên tay, gã thiếu niên áo vàng nhồi lên nhồi xuống nghe leng keng, hắn chầm chậm đi về phía bàn của lão già và cô gái có hai bím tóc.
Lão già nhìn hắn cười híp mắt:
- Nếu bạn thích rượu thì xin mời ngồi xuống uống chơi vài chén, tôi mời bạn đây mà.
Lão ta hình như đã có hơi men, lời nói của lão đã đặc sệt y như là lưỡi bị cụt lại hay đang ngậm một quả trứng gà, đúng là giọng đã ngà say.
Đĩa đậu phộng rang bắn tung lên, những hạt đậu tua tủa lên mặt lão già tóc bạc.
Không biết vì sửng sốt hay vì quá sợ, lão già quên cả việc tránh né, lão cứ nhìn những hạt đậu như đang chờ nó bắn lên mặt lão.
Nhưng gã thiếu niên áo vàng vụt phất tay áo rộng, bao nhiêu hạt đậu bị cuốn vào tay áo và trút xuống đĩa y như cũ.
Lão già lờ đờ đôi mắt há hốc mồm, cũng không biết lão đã hoảng hốt hay là lão đang há mồm chờ những hạt đậu chui vào.
Riêng cô gái tóc bím thì vỗ tay cười hăng hắc:
- A, cái trò chơi đó thật là hay, thế ra cậu cũng biết hát thuật nữa à? Làm lại đi, làm lại cho tôi coi với, nhất định tôi sẽ bảo ông tôi mời cậu một bữa rượu thật nhiều, làm đi, làm cho coi mà, ngộ quá.
Bằng cái ngón vừa rồi, bất cứ ai là người biết qua về võ học cũng đều thấy gã thiếu niên có một nội lực phi thường nhưng khốn nỗi gặp cô gái thuộc về tay thưởng thức “méo mó” thành thử “độc gia công phu” bị trở thành trò xảo thuật.
Thế nhưng gã áo vàng lại không hề giận dữ, hắn nhìn cô gái từ đầu đến chân, một nụ cười dễ dãi dạng lên ánh mắt và hắn từ từ bước sang bàn khác.
Người ta thường hay không chấp nhất những lão già say mà lão già này lại có một cô cháu ngây thơ dễ mến, có lẽ gã áo vàng không đành tức giận với hai người như thế.
Thấy hắn đi, cô gái tóc bím kêu theo:
- Coi, sao cậu không làm cái trò ấy nữa? Cho tôi xem với.
Người có cái bớt xanh nơi mặt cười nhạt:
- Cái trò “ảo thuật” ấy càng ít xem càng tốt.
Cô gái tóc bím chớp mắt:
- Sao vậy?
Người có bớt xanh nơi mặt lạnh lùng:
- Nếu các người có võ công thì cái trò “ảo thuật” ấy đã làm cho các ngươi không kịp ngáp.
Khẽ liếc gã thiếu niên áo vàng, tia mắt cô gái tóc bím như có vẻ không tin, thế nhưng cô ta không dám hỏi.
Không cần nghe câu nói của gã có bớt xanh nơi mặt, gã thiếu niên áo vàng chầm chậm bước lại bàn Tửu Quỷ.
Leng keng... leng keng.
Những đồng tiền trên tay hắn lại vang lên.
Nhưng gã Tửu Quỷ đã say cúp mất rồi nhưng bầu rượu của hắn đã cạn khô gần thủng đáy và gã gục đầu lên bàn, hơi thở sặc mùi men.
Gã thiếu niên áo vàng cười nhạt, hắn nắm tóc Tửu Quỷ lật mặt lên ngắm nghía một hồi rồi buông xuống bỏ đi.
Bị buông xuống một cách phũ phàng, trán Tửu Quỷ đập xuống bàn đánh xầm một tiếng nhưng hắn vẫn cứ ngáy pho pho.
Gã có bớt xanh nơi mặt lạnh lùng:
- Một chén giải sầu vạn cổ, câu nói không biết của ai mà hay quá, kẻ đã say rồi thì còn hay hơn người tỉnh gấp bội.
Không thèm đếm xỉa đến hắn, gã áo vàng chấp tay sau lưng thong thả bước ra.
Lạ lùng làm sao, bọn Hồ Phi, Hồ Mỵ, Hàn Ban, Hàn Minh, Đoàn Khai Sơn, Dường Thừa Tổ, sáu người cũng lập tức theo ra, họ nối đuôi nhau như một đoàn người ngoan ngoãn.
Sắc mặt của họ xuống màu ủ rũ, chân bước từng bước một, nửa thân trên không dám lay động chừng như họ rất sợ đồng tiền đang đặt trên đầu rớt xuống thình lình.
Xem chừng họ lâm vào cảnh hồn phi phách tán, họ cẩn thận từng li từng tí, y như là đồng tiền trên đầu họ một mai rơi xuống thì sinh mạng của họ cũng sẽ rơi theo.
Sống quá nửa đời người, lão Tôn Gù đã từng thấy rất nhiều chuyện lạ nhưng thật tình lão chưa từng chứng kiến cảnh nào lạ đến thế này bao giờ.
Dạo trước lão có nghe người ta nói trong thâm sơn cùng cốc có một loài quỷ rất thích ăn óc khỉ, mỗi khi muốn ăn con quỷ đó “triệu tập” tất cả khỉ trong rừng lại ngó qua một lượt, nếu thích ăn con nào thì đặt trên đầu con đó một hòn đá, con khỉ được “chiếu cố” bằng cách đặt hòn đá lên đầu ấy sẽ không bao giờ dám chạy trốn, nó cứ một mực ngoan ngoãn ngồi chờ chết.
Lúc nghe người kể chuyện ấy, lão Tôn Gù cứ ngồi nhấm nháp gật gù, lão không bài xích, nhưng lão cho câu chuyện ấy có tính cách thần thoại, câu chuyện “truyền thuyết” của những bộ lạc miền núi mua vui trong lúc hơi men cao hứng thế thôi.
Nhưng bây giờ, chuyện “thần thoại”, chuyện “truyền thuyết” ấy lại “hiện” ngay trước mắt lão mà những con khỉ ngoan ngoãn ấy là những con người “hào khí xung thiên” giữa tiệc rượu vừa rồi.
Bằng võ công và “khí phách” của sáu con người ấy, bất cứ gặp ai dẫu người đó là cao thủ nhất nhì trong chốn võ lâm nhưng nếu “chạm” nhau, nhất định họ sẽ giải quyết trên tinh thần “sắt thép”.
Lão Tôn Gù tin tưởng như thế qua dáng sắc của họ, nhưng một chuyện làm cho lão ngạc nhiên là khi chạm mặt gã thiếu niên trông không có gì đáng gọi là ghê gớm ấy, sáu con người “dọc ngang một cõi” kia bỗng biến thành sáu con cừu non.
Lão Tôn Gù thật không hiểu ra làm sao hết.
Nhưng lão cũng không muốn hiểu làm gì.
Sống đến cái tuổi của lão, sống trong bối cảnh mà chỉ bằng vào đuôi mắt khóe môi cũng gây ra chuyện máu rơi thịt đổ thì thấy những chuyện mơ mơ hồ hồ như thế cũng đã là quá lắm rồi, biết rõ thêm cặn rễ của nó làm chi cho thêm phiền toái.
Trời không còn mưa nữa nhưng trong ngõ hẻm gió vẫn còn thổi mạnh lắm.
Không biết tự bao giờ, bốn tên áo vàng bên ngoài đã vẽ lên mặt đất mười mấy cái vòng tròn, mỗi vòng tròn chỉ bằng trang cái thúng.
Bọn sáu người của Đoàn Khai Sơn lủi thủi đi ra, cũng không ai ra lệnh, mỗi người trong bọn họ đều “tự động” bước vào trong một cái vòng tròn.
Họ đứng rất cẩn thận, hình như họ rất sợ dẫm chân phải lên lằn vẽ.
Sáu con người lập tức biến thành sáu pho tượng gỗ.
Đã dặn lòng không thèm nghĩ nữa nhưng sự việc xảy ra làm cho lão Tôn Gù buộc phải nhăn mày.
Lão nhớ hồi xưa, không phải nhớ mà là nghe nói rằng đời Chu Văn Vương còn ở đất Tân Kỳ, ông ta nhốt tù nhân cũng bằng những vòng tròn trên mặt đất.
Xứ Tân Kỳ hồi đó không có “trại giam” nhưng tù nhân không bao giờ trốn thoát và cũng chưa nói ai trốn hoặc “mưu toan” trốn bao giờ.
Tại sao vậy?
Người ta nói vì tại Chu Văn Vương giỏi về khoa bói toán, ai có trốn cũng bị bắt lại ngay.
Nhưng lão Tôn Gù nghĩ khác.
Lão nghĩ có mấy nguyên nhân làm cho người tù đất Tân Kỳ hồi đó không chịu trốn, không có ý trốn, mặc dù chỉ bị giam bằng một cái vòng tròn vẽ trên mặt đất. Thứ nhất, sự tổ chức guồng máy cai trị của Văn Vương lúc bấy giờ chặt chẽ lắm, thứ hai, xã hội Tân Kỳ lúc bấy giờ rất công bằng nhân đạo, dân trí của họ nhờ đó mà nâng cao, con người làm việc và hưởng thụ trên tinh thần tự nguyện tự giác cho nên một khi đã không có sự bắt buộc cưỡng bách thì tự nhiên cũng không có trốn tránh trách nhiệm của mình.
Nhưng người tội phạm của xứ Tân Kỳ có lẽ cũng thỏa mãn trên tinh thần.
Nhưng đó cũng chỉ là chuyện “nghe nói” lại, bây giờ chính lão Tôn Gù nhìn tận mắt chuyện giam người trong cái vòng tròn.
Vậy thì, có hai trường hợp giải thích sự việc ấy như sau: thứ nhất, sáu con người “cao thủ” của bọn Đoàn Khai Sơn đã bị một thứ bùa mê sai khiến, thứ hai, người chủ của những đồng tiền này là người có uy lực phi thường.
Gạt bỏ trường hợp thứ nhất ra vì lão Tôn Gù là hạng người không tin về bùa phép, vậy người chủ của những đồng tiền này là ai mà lại có quyền năng như thế?
Nhưng nếu có quyền năng làm cho thiên hạ không dám trái lệnh thì tại sao gã mặt có bớt xanh dám nói những câu không giữ ý vừa rồi?
Chẳng lẽ tên có bớt xanh lại hơn những tên áo vàng một bậc?
Lão Tôn Gù không suy nghĩ nữa, vì tên thiếu niên áo vàng đã trở vô.
Mặt hắn vẫn lạnh băng băng và cho đến bây giờ, hắn chưa hé miệng nói một tiếng nào.
Hắn đi vào và ngồi chiếc bàn mà bọn sáu người của Đoàn Khai Sơn vừa rời khỏi.
Độ tàn một điếu thuốc lại có thêm một người áo vàng nữa đi vào đầu ngõ.
Người này hơi lớn tuổi, hắn chỉ có một vành tai, theo dấu thẹo thì có lẽ hắn đã bị người ta lắc hết một vành chứ không phải mang tật từ nhỏ.
Mặt hắn cũng mất hết một con mắt, con mắt còn lại tròn xoe người người trông dễ sợ.
Tự nhiên. Áo hắn mặc cũng màu vàng và cũng có viền kim tuyến như gã thiếu niên.
Theo sau hắn là một dọc bảy tám người, già có nhỏ có, hình dáng khác nhau, có người cao, có người lùn, có người mập tuỳ lùn mà cũng có kẻ ốm tong teo.
Nhìn qua cách ăn vận hình như họ cũng là những người có tên tuổi lắm nhưng bây giờ họ cũng không khác gì bọn Đoàn Khai Sơn, nghĩa là họ cũng ủ rũ như kẻ đưa ma, họ đi như học trò lễ, thân trên của họ thật thẳng, cần cổ họ giữ thế “nghiệm”, họ cẩn thận từng bước đi theo người áo vàng một mắt đến trước cửa quán và ngoan ngoãn bước vào vòng tròn vẽ sẵn trên mặt đất.
Trong đám người mới tới có một gã ốm tong teo nhưng vẻ mặt hết sức dữ dằn.
Liếc thấy người này, bọn Đoàn Khai Sơn hình như quen mặt và bằng vào tia mắt của họ, có lẽ như đang lấy làm lạ, không hiểu tại sao tên này cũng đến đây.
Tên áo vàng một mắt khẽ liếc bọn Đoàn Khai Sơn cười nhạt, hắn đi thẳng vào trong quán nhìn gã thiếu niên áo vàng, hai người khẽ gật đầu nhưng không ai nói một lời.
Không khí nặng nề chậm chạp trôi qua, một lúc sau nơi đầu ngõ lại xuất hiện thêm một tên áo vàng nữa.
Người này thì tuổi khá cao, râu tóc đều đã hoa râm, lão cũng mặc áo vàng, cũng viền kim tuyến, bên sau lão cũng kéo theo một dọc mấy người.
Những người đi theo sau lão không có gì đáng nói vì họ cũng y như những người trước, cũng y như bọn Đoàn Khai Sơn, cũng bằng những bước đi không núc nhích, cũng bằng những bộ mặt đưa ma.
Chỉ có lão áo vàng tóc hoa râm là đặc biệt.
Khi ở ngoài xa thì không thấy gì khác lạ nhưng đến lúc gần thì đúng là một dị nhân.
Da dẻ của lão giống y những người dân ở vùng hải đảo phương tây, da lão không vàng không trắng mà lại nâu xanh. Với da mặt như thế, được phủ bở một nùi tóc muối tiêm xám trắng trông đến lạnh người.
Luôn cả da bàn tay của lão cũng thế, cũng xanh nâu.
Những kẻ đứng bên ngoài quán trông thấy lão như là trông thấy quỷ và tất cả chợt rùng mình.
Chỉ chưa tàn hai điếu trhuốc mà mấy mươi vòng tròn vẽ trên mặt đất trước cửa quán đã chật cả ngươì.
Người nào cũng y như người nấy, họ như nín hơi đứng thẳng, da mặt nhợt nhạt, không ai dám nói với ai một lời nào.
Những người mặc áo vàng thêu kim tuyến đã lên đến bốn, người sau cùng là một lão già tóc trắng phơ phơ, da mặt nhăn nheo, lưng có vẻ hơi còng.
Bước đi của lão ta cũng có phần xiêu xẹo, xem hình như có vẻ lớn tuổi hơn lão già kể chuyện trong quán đến ba bốn tuổi.
Một lão già dáng cách coi khốn đốn như thế mà sau lưng lão ta, người đi theo lại càng đông hơn.
Một chiếc bàn, bốn người áo vàng có viền kim tuyến chiếm mỗi người một bên, không ai nói với ai một tiếng, họ giống như những người câm.
Những kẻ ngoài sân, những kẻ “tự động” đứng trong vòng tròn vẽ trên mặt đất thì lại như bị ai lấy chỉ may miệng lại, ngoại trừ tiếng gió đưa xì xào, ngoài sân có người mà lại vắng lặng như tờ.
Cái “tiểu điếm” của lão Tôn Gù bây giờ, nếu nhìn vào từ phía bên ngoài, nó mường tượng như cái nhà mồ.
Con người có chỗ dựa vững chắc từ khi bất chợt trở thành tri kỷ với Tửu Quỷ như lão Tôn Gù nhưng đến bây giờ hình như lão đã muốn run.
Thế mà tên có cái bớt xanh trên mặt vẫn ngồi điềm nhiên uống rượu, hắn uống từng ngụm nhỏ một cách thong dong.
Nhưng thôi, cứ kể như hắn là một kẻ lỳ đi, chứ hai ông cháu của cô gái tóc bím thì quả là lạ không thể tiếng.
Ông thì coi như sắp kề miệng lỗ, cháu tì sữa còn dính quanh môi, vậy mà hai ông cháu vẫn ngồi nhấm nháp như thường.
Người điếc không sợ sấm, phải chăng hai ông cháu nhà này cũng trong trường hợp đó.
Hay là ông quá lờ mờ, còn cháu thì vì quá mê nên chờ xem những trò ảo thuật?
Mà không chừng đúng đấy, đúng là một trò “xiếc” mà những con khỉ ngoan ngoãn đóng trò là những đám người đang đội đồng tiền như chết sững trong vòng.
Không biết đã qua bao lâu, vì lúc bấy giờ thời gian như ngưng đọng mà cũng vì người không còn đủ sáng suốt để “đếm” giờ khắc trôi qua, chuyên xảy ra làm cho nó trôi qua một cách nặng nề.
Tách! Tách! Tách!
Tiếng nghe bây giờ nghe rõ lắm. Cứ mỗi khi gặp một khung cảnh im lìm thì y như là thính giác của người ta lại tỏ hẳn lên.
Mà cũng có thể người ta vì quá ngóng chờ tiếng động, tiếng động nào cũng được, miễn có để tan bầu không khí mà họ không thở nỗi nên bất cứ tiếng động nào dù nhỏ đến đâu họ cũng nghe thấy một tiếng tách rõ ràng hơn những lúc bình thường.
Giả thuyết sau này có lẽ là đúng và đáng tin hơn hết.
Những tiếng động của lá rơi này lại không có tác dụng phá tan im lặng, không có tác dụng “khai thông” bầu không khí khó thở. Trái lại, thứ tiếng lá rụng trong khung cảnh hãi hùng càng làm tăng thêm khủng khiếp!