Chương 3: Tiên Thần Tây Môn Nhu
Ngoài sân, màn sương xuống càng phút càng dày.
Không biết ở tận đâu, xa lắm, tiếng canh khắc khoải.
Không biết đã bao lâu, vành môi trệ xuống như miếng thịt trâu của lão già một giò vụt điểm phớt nụ cười.
Thật là lạ, lão là một con người có bộ mặt ghê gớm quá, nói bằng một giọng khinh bạc thì lão là một con người co bộ mặt thấy buồn nôn.
Thế mà khi lão cười, đành rằng không biết lão cười hay nhe răng ra để hù dọa thiên hạ nhưng nếu nhìn kỹ thì lại có phần ôn nhu tha thiết.
Lão già một giò giữ nguyên nụ cười thân thiện thật lâu và lão nói:
- Các hạ là ai, chúng tôi đã biết rất rõ.
Tên có bớt xanh vẫn cứ thỉnh bơ:
- Thế à?
Lão già một giò cười:
- Và chúng tôi là ai, nghĩ rằng chắc các hạ cũng biết rồi.
Tên mặt có bớt xanh tinh đến mức lạnh băng băng:
- Trong vòng hai năm gần đây những kẻ không biết các ngươi chắc là hơi ít.
Lão già một giò lại cười, lão từ trong lưng ra một phong thơ.
Phong thơ này cũng y chang như phong thơ mà lão già áo vàng khi nãy đã móc trao cho những người đứng ngoài sân xem, nó không khác một tí nào cả, nhưng không hiểu tại sao lão Tôn Gù bỗng lại muốn xem thử một chút coi trong ấy viết những gì.
Hình như cô gái tóc bím cũng thế, chắc cô ta cũng muốn xem nên đưa đôi mắt cứ liếc chừng về phía đó.
Chỉ tiếc một điều là lão một giò đã đặt lá thư trên bàn và lão lại bật cười:
- Các hạ không nề hà từ ngàn dặm đến, nguyên do nghĩ chắc cũng vì phong thơ này đấy chứ?
Tên có bớt xanh trên mặt trả lời mà chẳng gật đầu:
- Đúng thế.
Lão già một giò hỏi luôn:
- Chắc các hạ không biết phong thơ này của ai chứ?
Tên có bớt xanh nơi mặt đáp thỏn lỏn:
- Không biết.
Lão già một giò cười:
- Cứ theo chúng tôi biết thì trong giang hồ tiếp được thơ này không dưới một trăm người, thế nhưng một kẻ nào biết người viết cũng như người gửi là ai. Chúng tôi đã dò xét khắp nơi, cuối cùng vẫn không ra manh mối.
Tên có bớt xanh trên mặt khẽ rùng vai:
- Nếu luôn cả các ngươi mà dò xét cũng không ra thì trên đời này còn ai mà biết.
Lão một giò cứ cười:
- Chúng tôi tuy không biết là ai viết phong thơ này nhưng dụng ý của họ thì chúng tôi biết rất rõ ràng.
Tên có bớt xanh nơi mặt nhướng nhướng mày:
- Sao?
Lão một giò nói:
- Dụng ý của kẻ viết thư này dẫn dụ những hào kiệt thành danh trong chốn giang hồ đến đây, dẫn dụ cho mọi người vì tranh giành báu vật chôn giấu nơi này mà sinh ra tàn sát và tự nhiên kẻ viết thư này sữ làm cái công việc của ngư ông.
Tên có bớt xanh trên mặt vặn lại:
- Đã biết thế mà sao các hạ lại cũng đến đây?
Lão một giò nói:
- Chính vì dụng ý của kẻ viết thư này quá ác cho nên chúng tôi phải đến.
Tên có bớt xanh nơi mặt nhướng mày lơ đãng:
- Thế à?
Lão già một giò càng tỏ giọng ôn tồn:
- Chúng tôi đến đây cốt là khuyên các vị không nên để vướng bẫy con người ấy, chỉ cần các vị bỏ đi rồi đừng nhúng tay vào thì đại họa tự nó sẽ tiêu.
Gã có bớt xanh nơi mặt cười khẩy:
- Kể ra lòng dạ của các ngươi cũng khá tốt đấy chứ.
Như không nghe thấy ý nghĩa mỉa mai trong câu nói đó, lão già một giò cứ cười cười:
- Chúng tôi chỉ mong đem đại sự biến thành tiểu sự, để cho toàn thể được sống trong cảnh bình tịnh dài lâu.
Gã có bớt xanh trên mặt nói thật chậm:
- Thật ra thì nơi đó có chôn giấu báu vật hay không, chắc chắn tất cả chưa biết.
Lão già một giò như chụp được cơ hội may mắn lại vỗ tay tán thưởng:
- Chính như thế... chính như thế, vì lẽ ấy nếu tất cả chết sống với nhau thì chẳng lẽ hóa ra oan uổng lắm ư!
Gã có bớt xanh trên mặt nói:
- Nhưng ta đã đến đây rồi, lành dữ gì cũng phải xem cho hết chuyện, đâu lẽ vì vài câu “thuyết phục” vu vơ mà lại đi bỏ cược hay sao.
Mặt lão một giò vụt nặng xuống ngay:
- Cứ như thế thì các hạ không chịu bỏ trôi?
Gã có bớt xanh nơi mặt rùn vai:
- Cho dầu ta có bỏ trôi thì chưa chắc các ngươi đã được.
Lão già một giò cười nhạt:
- Ngoài các hạ ra, tôi không thấy ai là người có thể tranh chấp với chúng tôi.
Lão chấm dứt câu bằng cách động nhẹ đầu gậy trên mặt đất và một tiếng “cộc” khô khan chưa kịp phát ra, là đá xanh đã tóe lửa tứ tung.
Chiếc gậy của lão xuyên qua thớt đá xanh, lún sâu xuống nền gần quá hai phân.
Gã có bớt xanh nơi mặt vẫn cứ tỉnh bơ:
- Cũng khá, thảo nào trong “Binh Khí phổ” đã chẳng liệt chiếc gậy vào hàng thứ tám.
Lão một giò rít giọng:
- Biết rồi, Xà Tiên của các hạ được liệt vào hàng thứ bẩy, hơn ta một bậc nhưng ta vẫn muốn xem.
Gã có bớt xanh trên mặt vẫn điềm nhiên:
- Ta cũng đang có ý cho các ngươi xem đó.
Vừa nói, tên có bớt xanh trên mặt vừa ấn nhẹ trên mặt bàn, thân hình bắn vọt như chiếc pháo thăng thiên.
Vút!
Một tiếng rít xé trong gió, tay phải của hắn đã tung ngọn roi dài đen bóng.
Tất cả cá loại binh khi mềm, càng dài càng khó sử dụng, ai dùng ngọn nhuyễn tiên hơn một xải tay, người ấy được kể là cao thủ võ lâm, thế mà ngọn Xà Tiên của gã có bớt xanh nơi mặt lại dài hơn hai trượng rưỡi.
Quả là một chuyện kinh người.
Hắn chỉ rung tay một cái, ngọn roi đã vút tới ngoài sân, cuốn trọn một vòng khắp những đầu người đang đứng co ro, bao nhiêu đồng tiền trên đầu họ đều văng xuống đất.
Trong số bốn mươi mấy người đang bị “nhốt” trong những vòng tròn, họ không đều nhau, cao có lùn có thế mà ngọn roi cuốn qua làm rơi tất cả những đồng tiền lại không phạm lại ai một sợi tóc.
Lối sử dụng roi của hắn thật là uyển chuyển và vô cùng chính xác.
Ngọn roi vào tay hắn đã thành và đầu như một con rắn, ngọn roi như có thêm một con mắt để phóng cho trúng đích.
Bốn mươi mấy người “tù” đều thuộc vào hàng có hạng trong chốn võ lâm nhưng họ chưa từng thấy mà cũng chưa từng nghe có một tay roi siêu phàm như thế.
Họ đưa mắt nhìn nhau và không hẹn mà cũng một lúc, họ phóng mình lên vượt qua bờ tường như bầy ong vỡ tổ mất dạng trong đêm tối.
Lão già áo vàng tái mặt quát lên:
- Ngươi đã đánh rơi Đoạt Mạng Kim Tiền thì ngươi phải thế mạng cho những kẻ ấy.
Lão một giò khoát tay cười:
- Đã có một mạng của Tiên Thần Tây Môn Nhu thì đã quá đủ để thay cho bốn mươi nhân mạng.
Sự việc diễn biến bất giờ làm cho lão Tôn Gù sửng sốt nhưng đồng thời cũng giải đáp được những thắc mắc trong lòng lão này giờ, lão biết thêm được tên của gã có bớt xanh trên mặt: Tiên Thần Tây Môn Nhu.
Gã áo vàng có da mặt màu nâu không nói một tiếng nào nhưng tay gã đã người ánh thép: một món binh khí lạ lùng, đao không ra đao, cưa cũng không phải là lưỡi cưa, nó lấp lánh trông rờn rợn.
Đặc biệt là tên thiếu niên áo vàng từ trước đến giờ không hé môi, hai tay của hắn cũng không rút ra khỏi túi áo, bây giờ thì hắn mới chầm chậm rút ra kéo theo luôn binh khí: Hai chiếc vòng cọng lớn hơn tay cái.
Binh khí có hai đặc điểm: dài thì lợi thế, ngắn thì hiểm ác, vậy thì binh khí của gã thiếu niên phải nói là cực kỳ hiểm ác.
Một lần ra tay là một thế công trí mạng bởi vì bằng vào món binh khí ngắn ngủi như thế, nếu không làm cho đối thủ mang thương thì trái lại chính người sử dụng sẽ mang thương.
Đó là nguyên tắc nằm lòng của người dùng binh khí ngắn.
Sử dụng những món binh khí như thế tất nhiên là những kẻ võ công không thể tầm thường.
Bốn tên áo vàng vừa nhoáng mình lên và đã vây chặt Tiên Thần Tây Môn Nhu vào giữa.
Chỉ có lão một giò thì lại không kết vào vòng vây.
Lão lui mấy bước và nhếch môi cười theo dõi.
Gã áo vàng mũi quặp vùng kéo bành thân áo: trước ngực gã có một sợi dây đai lớn bảng, trên đó giắt chồng chất lên nhau bốn mươi chín cây lao dài ngắn không đều.
Đây không phải là thứ lao dài như lao của giống dân thiểu số, có lẽ phải gọi nó là đoản thương thì mới đúng bởi vì cây dài lắm cũng không đầy nửa sải.
Cả nắm người của bọn áo vàng cùng xoáy mắt vào Tây Môn Nhu, vẻ mặt họ hầm hầm nhưng trong ánh mắt họ vẫn không giấu được sự e dè bởi ngọn roi như có mắt ấy.
Lão một giò cười sằng sặc:
- Lai lịch của bốn vị bằng hữu ta đây, chắc các hạ đã biết qua rồi chứ?
Tây Môn Nhu lạnh lùng:
- Tự nhiên.
Lão một giò gật đầu:
- Cứ theo lý lịch mà nói thì thân danh của năm ngươi trong bọn ta đúng ra thì không nên liên hợp vây công nhưng chỉ vì cần đối phó gấp với ngươi nên hôm nay không thể từ nan.
Tây Môn Nhu cười khẩy:
- Trong giang hồ, bọn tiểu nhân thường lấy đông thắng ít, chuyện đó ta đã thấy quá nhiều rồi chứ đâu phải chi có các ngươi.
Lão già một giò lại gật gật:
- Ta vốn không muốn kết liễu tính mạng của ngươi nhưng tiếc vì ngươi đã phạm vào quy củ của chúng ta thì chúng ta làm sao lại có thể để cho ngươi đi được? Có lẽ ngươi cũng thừa biết, một khi quy củ bị hủy diệt thì uy tín sẽ tan theo.
Tây Môn Nhu nhếch môi:
- Nhưng nếu ta cứ muốn đi thì sao?
Lão một giò lắc đầu:
- Không, ngươi không đi được.
Tây Môn Nhu cười ha hả:
- Nếu đến lúc mà ta thật tình muốn đi thì bằng sức của các ngươi không làm sao giữ được ta cả.
Vừa nói, Tây Môn Nhu vừa rung nhẹ cổ tay, ngọn roi vụt cuốn lại thành bảy tám vòng dưới lớn trên nhỏ y như là một con ốc và hắn đứng yên trong những vòng roi tròn ốc ấy.
Lão một giò gầm lên một tiếng, chiếc gậy sắt vụt ngang.
Chiêu thế đánh ra đó chỉ là Hoành Tảo Thiên Quân tầm thường như ai có học võ đều nhận rõ như thế ấy phát ra từ cánh tay, từ chiếc gậy của lão một giò thì lại càng tầm thường.
Ai đã mầm vào võ nghiệp cũng đều có thể sử dụng chiêu Hoành Tảo Thiên Quân nhưng đối với lão một giò thì bốn chữ “thiện” ấy mới thật đúng nghĩa.
Tây Môn Nhu vẫn không ngớt tiếng cười và cả thân hình của hắn, cả vòng roi tròn ốc vụt nhấc bổng lên.
Rẹt! Rẹt!
Nhiều tiếng động liên tiếp nổi lên, chỉ trong chớp nhoáng gã áo vàng một mắt đã phóng luôn mười ba ngọn lao một lượt.
Những ngọn lão xé đi trong gió những xâu chuỗi bằng tơ đỡ nơi cán lao tủa ra nhưng những cánh hoa đào.
Những ngọn lao dài phóng ra trước nhưng lại đi sau, nhưng ngọn lao phóng ra sau mà tới trước và nhiều tiếng dội nổi lên.
Rắt! Rắt! Rắt!
Mười mấy ngọn lao đều bị vòng roi đánh bật, dài cũng như ngắn đều bị gãy làm đôi, những chùm tuôi đỏ cũng như lúc nãy vẫn như những cánh hoa đào rơi ra.
Nhiều ngọn lao còn trớn bám ghim vào thành tường, sức mạnh bị phản đà rung lên bần bật.
Tây Môn Nhu như một con rồng lớn trong mây, hắn bắn thẳng mình mất hút vào đám sương mù.
Lão một giò rống lên:
- Theo!
Cây gậy sắt chống “nạch” một cái xuống nền đá, thân hình lão vọt thẳng như cây pháo tăng thiên, một chân của lão hình như còn hơn những kẻ đủ hai chân, tiếng gậy khua chưa dứt thì lão đã không còn thấy nữa.
Bốn người áo vàng còn lại cùng phóng lên một lượt, họ nhắm theo tiếng gió cây gậy sắt.
Ngõ hẻm lại trờ về vắng lặng như khung cảnh cố hữu của nó, trước sân tửu điếm còn lại hai vũng máu và hai cái thây người sóng sượt.
Giá như không có hai cái thây người làm chứng tích thì có lẽ lão Tôn Gù sẽ nghĩ những chuyện vừa qua là cơn ác mộng vì mặc dầu dấu vết chết chóc hãy còn sờ sờ ra đó nhưng lão vẫn cứ đứng lặng ngơ ngơ.
Thật lâu, lão Tôn Gù mới như chợt tỉnh, lão quay vào trong quán, lão già kể chuyện đã “tỉnh dậy” từ bao giờ, cũng y như một cơn mơ, vẻ mặt lão không thấy chút hơi hám gì để nói lên rằng lão vừa uống rượu, đã không có gì chứng tỏ rằng vừa mới say khướt mà ánh mắt của lão già “kể chuyện” lại có vẻ sáng hơn, lão nhìn theo hướng những người áo vàng vừa đi khuất và lão vụt thở phào.
Trong tửu quán lúc nàu chỉ còn lại ba người: lão già “kể chuyện”, cô gái tóc bím và Tửu Quỷ đã say mềm nằm ngục trên bàn.
Lão Tôn Gù cất tiếng khàn khàn hỏi:
- Tôn giá rành chuyện giang hồ, tôn giá có thể giải thích vì sao bọn người võ lâm khi nãy lại sợ đồng tiền như vậy. Họ sợ đến nỗi đứng yên chờ chết.
Lão già “kể chuyện” như không nghe. Lão Tôn Gù hỏi, lão quay mặt về hướng cô gái nói:
- Cháu có nghe nói đến Kim Tiền bang bao giờ chưa?
Cô gái đáp:
- Kim Tiền bang là một bang phái coi tiền như sinh mạng con người. Người cầm đầu Kim Tiền bang được xếp vào hàng thứ hai trong Binh Khí phổ.
Lão già “kể chuyện” gật đật đầu rồi nói:
- Kẻ cầm đầu được xếp vào hàng thứ hai trong Binh Khí phổ thì kẻ ấy võ công đâu phải tầm thường. Chính vì lẽ đó mà những người ban nãy bị đặt đồng tiền lên đầu coi như đã giao mạng mình cho đồng tiền đó. Hiện nay Kim Tiền bang đang bành trướng thế lực trong võ lâm, đã có bao nhiêu người quy phục nhằm bảo toàn tính mạng và mưu cầu danh lợi.
Cô gái tóc bím nhếch môi ngẫm nghĩ gồi lâu rồi nàng bật cười:
- Kim Tiền bang cho dù lớn mạnh thế nào nhưng danh nghĩa vẫn không minh chính, đáng để cho người ta ghét mà cũng đáng để cho thiên hạ tức cười.
Lão già “kể chuyện” nghiêm giọng:
- Tiền là một thứ có thể sai thần khiến quỷ, tiền là một thứ thần thông quảng đại, thiên hạ vạn vật sinh tồn cũng nhờ có nó. Trong đời nay còn có uy lực nào mạnh hơn “Kim Tiền” chứ, khi đó cháu sẽ thấy “nó” không có gì tức cười cả.
Cô gái tóc bím gật đầu:
- Nhưng trong đời này còn có những kẻ mà thế lực vẫn không làm lay chuyển nổi.
Lão già “kể chuyện” thở ra:
- Làm lay chuyển con người được không là một chuyện mà làm sống cho con người lại là chuyện khác, vả lại những người mà thế lực kim tiền không lay chuyển nổi ấy tiếc vì chẳng được bao nhiêu, thêm nữa số mà kim tiền không làm lay chuyển được đó ngày một giảm dần.
Cô gái tóc bím lại nhếch môi, nhưng nàng không nói, nàng chỉ cúi xuống nhìn những móng tay mình.
Lão già “kể chuyện” hút mấy hơi thuốc, lão gõ gõ chiếc ông điếu lên thành bàn và nói chậm:
- Ông nói thế, cháu có nghe rõ hay không?
Cô gái tóc bím mở tròn đôi mắt, nàng khẽ liếc qua bàn Tửu Quỷ và nở nụ cười tươi:
- Cháu đâu có uống say thì làm sao lại không nghe trhấy.
Lão già “kể chuyện” gật gật đầu:
- Lai lịch của nhưng kẻ ấy chắc chắn cháu cũng đã hiểu rõ rồi chứ?
Cô gái tóc bím nói:
- Hiểu tất cả.
Lão già “kể chuyện” lại gật đầu:
- Ở đây rượu tuy có ngon nhưng một con người muốn sống không thể cứ mãi cắm đầu vào hũ rượu mà ù ù cạc cạc suốt đời... đến lúc cần đi thì phải đi... à... à... chủ quán, tính tiền đi. Mà ông chủ quán này, có phải thế hay không nhỉ?
Hai ông cháu nhà “kể chuyện”, một hỏi, một trả lời, giống như một cuộc đàm thoại giải buồn khi nhàn rỗi nhưng thật sự thì đối với lão Tôn Gù, cuộc “vấn đáp” này y như là một “lớp” có chuẩn bị, có sắp đặt đàng hoàng để dẫn giải những chuyện khó hiểu cho người khác hiểu.
Nhưng dầu sao, quả thật lão già “kể chuyện” đã kể chuyện khá hấp dẫn làm cho lão Tôn Gù nghe đến xuất thần, bây giờ nghe hỏi lão bật cười đáp lại:
- Lão Tiên sinh hiểu biết chuyện giang hồ quá nhiều chắc Tiên sinh phải là một anh hùng, vậy thì cái khoản rượu này tôi xin đài thọ để làm quen.
Lão già “kể chuyện” lắc đầu:
- Tôi vốn không phải là anh hùng mà chỉ là một con sâu rượu. Nhưng mà, anh hùng cũng tốt, sâu rượu cũng hay, song nợ thì phải trả, có lười trả cũng không thể được, muốn trốn cũng không thể được.
Lão móc ra một nén bạc đặt lên bàn vịn lấy vai cô cháu gái, lứng cứng đi ra.
Lão Tôn Gù nhìn theo trân trối, cho đến khi hai ông cháu nhà “kể chuyện” khuất rồi, lão quay vào thì Tửu Quỷ không biết tỉnh dậy từ bao giờ.
Hắn đứng ngay nơi bàn của gã có bớt xanh, hắn đang cầm phong thơ mà lão một giò bỏ quên nơi đó.
Lão Tôn Gù cười hề hề:
- Đáng lý hôm nay ông bạn đừng uống rượu, ông bạn đã không xem được một vở kịch khá hay.
Gã Tửu Quỷ cũng cười nhưng rồi hắn vụt thở ra:
- Gút chính của vở kịch ông nói có lẽ chưa kịp diễn hay nói cách khác, là nó sẽ diễn tiếp vào một nơi khác gần đây, có lẽ tôi không xem cũng không thể được.
Lão Tôn Gù cau mày.
Lão cảm thấy hôm nay người nào nói chuyện nghe cũng hơi kỳ cục, y như họ đã cùng uống lầm một thứ thuốc sật sừ.
Gã Tửu Quỷ rút lá thơ, hắn chỉ liếc sơ qua, da mặt tái mét của hắn vụt hơi ửng đỏ và hắn gập mình xuống ho sặc sụa.
Lão Tôn Gù không dằn được, lão nhích tới hỏi:
- Trong thơ đó nói những gì thế?
Tửu Quỷ ngập ngừng:
- À... không, không có gì... cũng chẳng có gì.
Lão Tôn Gù chớp chớp mắt:
- Nghe nói những kia đều vì lá thơ ấy mà đến?
Tửu Quỷ nheo mắt:
- Sao?
Lão Tôn Gù cười:
- Họ còn nói nơi ấy có chôn giấu báu vật gì đó. Hừ, thật đúng là ngày hiện quỷ.
Lão vừa lau bàn vừa nói tiếp:
- Ông bạn còn muốn uống rượu nữa thôi? Bữa nay tôi mời đấy.
Không nghe hắn trả lời, lão Tôn Gù quay lại thấy Tửu Quỷ đứng ngơ ngác, đôi mắt hắn đăm đăm về hướng xa xôi không biết hắn đang nghĩ ngợi những gì?
Ánh mắt của hắn đã không có một mảy may màu rượu mà còn đượm vẻ thê lương vô hạn, hắn cứ nhìn đăm về phía vòng tường cao, hướng ngọn đèn leo lét ở ngôi lầu nhỏ phía sau viện.
Ánh đèn leo lét này bây giờ sao bỗng giống như mắt hắn, nó như chứa đựng cả một trời u uất.
Lão Tôn Gù trở ra nhà sau thì tiếng trống vọng từ lâu xa xa đã báo mãn canh ba.
Mấy gian phòng dành cho khách ngụ vẫn im lìm.
Riêng gian phòng của Tửu Quỷ đèn hãy còn chong, cánh cửa khép hờ theo từng cơn gió đong đưa nghe ken két.
Nhớ lại chuyện xảy ra hồi hôm, lão Tôn Gù bước lại vỗ vỗ vào cánh cửa:
- Ngủ rồi à? Sao không gài chốt?
Bên trong không có tiếng trả lời.
Lão Tôn Gù muốn đi ngủ nhưng không hiểu tại sao lại lại xô cửa bước vô.
Tửu Quỷ không biết đã đi đâu mất.
Nửa đêm gà gáy canh ba mà đi đâu thế chứ?
Lão Tôn Gù lẩm bẩm một mình.
Ngôi quán nhỏ nhưng thật là cà ngầu, dầu thế vẫn không bừa bãi bằng gian phòng của Tửu Quỷ.
Quần áo, khăn chiếu vất vẩy đó đây, ngay trong đầu gường của hắn bảy tám khúc gỗ tròn tròn nho nhỏ nhưng vẫn còn nguyên, hắn chưa khắc gì trên ấy cả.
Bên cạnh bầu rượu còn có mảnh giấy vo tròn.
Lão Tôn Gù nhìn biết đó là lá thư của lão già một giò bỏ lại.
Lão Tôn Gù đã quá quen với cài nghề làm “chủ quán” lâu nắm, câu nhật tụng là nếu không đụng đến chén cơm của mình thì không nên tò mò. Thiên hạ đa sự nhưng trong trường hợp này có khác, ít ra là lão biết hơi hơi mới được.
Lão kéo thẳng mảnh giấy, vuốt ngay ngắn, lão thấy trong ấy viết:
“Đúng ngày rằm tháng chín, tại Hưng Vân trang sẽ có cuộc khai quật nơi chôn báu vật, mong các hạ đừng bỏ qua cơ hội ngàn năm một thưở”
Mảnh giấy vỏn vẹn bấy nhiêu thôi.
Không đề tên người nhận, không ký tên người viết.
Nhưng ở đời, càng có vẻ mập mờ càng gợi ý tò mò, cái gì hơi bí mật mới có nhiều người ham khám phá.
Công dụng của mảnh giấy có mấy hàng chữ ngắn này có lẽ sẽ thỏa mãn tất cả. Người nhận cũng như người gửi, tự nhiên kẻ chủ động sẽ đạt mục đích của mình.
Và nhất định người viết lá thư này phải là một người sành tâm lý.
Lão Tôn Gù khẽ cau mày, vẻ mặt phớt tình cố hữu của ông chủ quán chuyên nghiệp bây giờ phải tỏ vẻ lạ lùng.
Hưng Vân trang, một láng giềng có “cận” nhưng không bao giờ “thân” nằm sát bên quán của lão, nói quen thì thật là quen, nói lạ thì cũng thật là lạ. Lão Tôn Gù và Hưng Vân trang quả là khắn khít, cả hai luôn luôn “nhìn” nhau nhưng chưa bao giờ nói với nhau được một tiếng. Ngọn đèn dầu leo lét phía sau ngôi lầu nhỏ thì cùng với lão “vẫy tay”.
Lão vụt nhớ đến Tửu Quỷ, lão nhớ tia mắt gần như “đắm đuối” của hắn cũng trao đổi tâm sự với ánh đèn hiu quạnh ấy mà bây giờ thì hắn đi đâu? Hắn và Hưng Vân trang có gì quan hệ?
Đêm vẫn trầm trầm.
Sương vẫn một màu trắng đục.