Quyển 5 - Chương 39: Tủ cất giữ tiêu bản
Cảm giác băng lạnh khi đầu ngón tay chạm vào kim loại, truyền qua tôi hơi thở chết chóc của thế giới khác. Thế giới ấy dĩ nhiên không thuộc về người sống, ngón tay tôi chạm phải cái mặt nạ bằng kim loại, giật nảy lên, lập tức rụt ngay về theo bản năng. Nhưng tôi đang ngồi dựa vào góc tường, rõ ràng có thể cảm thấy Đinh Tư Điềm đang nằm ngay bên cạnh mình chứ không phải ai khác.
Tôi thậm chí chẳng còn kịp sợ hãi, vội vàng xoay đèn pin qua bật lên chiếu vào chỗ bên cạnh mình. Đinh Tư Điềm đúng là vẫn đang nằm ngay ngắn dưới đất, có điều, vừa nãy chẳng ai chú ý đến, phía trước bức tường ngay bên cạnh mặt cô có một cái rương đồng nhỏ, trên nắp rương chạm nổi hình một con chồn lông vàng. Cái rương đồng đã lốm đốm hoen gỉ ấy khá thấp, nắp rương áng chừng chỉ cao ngang mặt Đinh Tư Điềm đang nằm, vừa nãy tôi quơ tay, liền rờ phải cái đầu con chồn lông vàng trên nắp rương. Tạo hình con chồn này hết sức kỳ quái, tuy vẫn nhìn ra là giống hoàng bì tử, nhưng lại được nhân hóa cao độ, cực giống mặt người, khiến tôi hiểu lầm đó là mặt nạ của cái xác Tiên Ty kia.
Tuyền béo nghe thấy tiếng động cũng nhổm người bò lại xem. Thời bấy giờ, tinh lực của chúng tôi tràn trề đến độ khó mà tưởng tượng nổi, trải mấy phen vào sinh ra tử, mình mẩy đầy thương tích, bụng thì rỗng không, vậy mà ác đấu một phen xong chỉ cần nghỉ ngơi giây lát là lại khỏe như trâu, sau này hồi tưởng lại, tôi cũng thấy kỳ quái, tại sao mình có thể kiên trì đến lúc ấy vẫn không ngã vật ra nhỉ? Không kể yếu tố tuổi trẻ khí thịnh, tôi nghĩ, còn một nguyên nhân chủ yếu nhất, thực ra cực kỳ đơn giản và cũng đơn thuần lắm. Thời đó, chúng tôi thực sự cho rằng mọi điều mình làm, đều là cống hiến tuổi thanh xuân để giải phóng toàn nhân loại khỏi biển lửa áp bức bóc lột, tuyệt đối không mảy may nghi ngờ. Tín ngưỡng có sức mạnh vô cùng vô tận, những người chưa từng thực sự sùng bái một lực lượng nào đó tự đáy lòng làm sao có thể giác ngộ được điều này.
Tôi và Tuyền béo dịch Đinh Tư Điềm sang một bên, châu đầu quan sát kỹ cái rương đồng. Nhìn bề ngoài, cái rương thần bí cũ kỹ lốm đốm đầy vết hoen gỉ, bốn mặt đều chạm khắc đạo bùa, tôi nhìn mà chẳng hiểu gì hết. Có điều, rương khảm nạm vô số đá quý và tơ vàng, hết sức hoa lệ lộng lẫy, vừa nhìn đã biết không phải đồ cổ tầm thường, không giống các loại rương chúng tôi vẫn thường thấy, nắp không có bản lề, mà giống như cái quan tài, phải nhấc cả nắp lên mới mở ra xem có gì bên trong được.
Thực tế, cái rương đồng này quả cũng khá giống chiếc quan tài bằng đồng nhỏ nhắn. Giờ thì sự việc đã rõ ràng đâu ra đó rồi, thứ bị bọn Nê Hội khai quật trong miếu Hoàng đại tiên ở Đại Hưng An Lĩnh chắc đến chín chín phần trăm chính là cái rương đồng cổ xưa trông như cái quan tài này. Nhìn kỹ con hoàng bì tử đáng ghét chạm khắc trên nắp rương, thấy mặt mũi nó khá giống người, khe hở giữa nắp và thân rương vẫn còn dấu vết bị lửa đốt, thiết tưởng, cái rương này đã từng bị người ta mở ra rồi.
Tuyền béo nổi máu hiếu kỳ, nói: “Cái rương đồng này nhỏ hơn tưởng tượng của chúng ta nhiều, không hiểu bên trong thứ quái quỷ này đựng cái khỉ mốc gì nhỉ?” Miệng nói, tay cậu ta đã thò ra định mở xem cho rõ ràng. Hồi trước, bọn tôi tham gia phong trào đả phá “tứ cựu” cũng đập nhiều đồ cổ rồi, nên cậu ta cũng chẳng coi trọng cái rương đồng ấy cho lắm.
Tôi vội cản: “Để yên đấy, cái rương này tuy nhỏ, nhưng xưa vẫn có câu, ‘ao nông lắm rùa, miếu nhỏ lắm ma,’ trước lúc chết, tên người Nhật bị kẹt ở mật đạo kia đã muốn chạy từ đây ra ngoài, tại sao hắn ta phải chạy chứ? Chúng ta chỉ cần suy ngược một chút là có thể rút ngay ra kết luận, cái viện nghiên cứu này không dưng lại chết bao nhiêu người, sợ rằng cũng khó tránh khỏi can hệ với cái rương đồng và xác chết nằm kia. Chúng ta còn sống được đến giờ này, chắc chắn là vì còn chưa làm một việc: đó chính là chưa mở cái rương đồng này ra. Nắp rương mà được nhấc lên lần nữa, chỉ e chúng ta sẽ chẳng còn cách nào sống sót rời khỏi đây được mất. Điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ địch là bảo tồn lực lượng của bên mình trước đã, không thể để xảy ra những hy sinh vô ích được.”
Tuyền béo gật đầu đồng ý ngay, cậu ta cũng tiện thể tìm thêm một cái cớ nữa: “Để đề phòng kẻ thù giai cấp trước khi diệt vong còn điên cuồng phản kích, tốt nhất đừng đụng đến cái rương này nữa, hình như tôi cũng đã lại sức một chút rồi, chúng ta mau mau nghĩ cách cứu Tư Điềm đi thôi. Nhất à... cậu nói xem... còn cứu được không nhỉ?” Tới đây, Tuyền béo ngắc ngứ không dám nói tiếp, cứ lúng ba lúng búng, chắc là lo lắng cho Đinh Tư Điềm quá, nên tâm lý không khỏi có phần dao động. Đối với cậu ta mà nói, tình trạng thế này thực sự rất hiếm khi xảy ra.
Tôi nói với Tuyền béo: “Chỉ cần chúng ta đoàn kết, chỉ cần chúng ta có dũng khí, chỉ cần chúng ta dám đấu tranh, không sợ khó khăn, tiếp tục tiến lên, kiên trì tranh đấu, toàn thế giới nhất định sẽ thuộc về nhân dân, tất cả ma quỷ yêu tà rồi nhất định sẽ bị tiêu diệt. Ánh ban mai của ngày thắng lợi sẽ nhanh chóng chiếu khắp địa cầu, tôi thấy gian mật thất này cũng khá nhiều đồ đạc, ta cứ thử tìm kiếm một lượt nữa xem sao...”
Nói đoạn, tôi quay lại kiểm tra tình trạng của Đinh Tư Điềm. Tính từ khi cô có dấu hiệu trúng độc của con trăn vảy gấm, dựa theo các truyền thuyết về loại chất độc này, chúng tôi đoán nhiều nhất là cô còn khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Giờ tuy mới chưa được nửa ngày, nhưng sau mấy phen kinh hãi cực độ, cộng với các vết thương bên ngoài, chất độc đã ngấm sâu vào tận xương cốt, xem chừng dù thế nào cũng không thể cầm cự thêm một ngày đêm, nhiều lắm chỉ được hai tiếng đồng hồ nữa là cùng. Một khi chất độc công tâm, sắc mặt từ xanh chuyển sang đen, thì dù có tìm được thuốc giải độc cũng chẳng thể nào cứu nổi.
Tôi biết sự việc không thể chần chừ thêm, không thể không phát huy tinh thần liên tục chiến đấu, vội bảo Tuyền béo đỡ mình đứng lên. Trước mắt, không thể trông mong gì ở lão Dương Bì, ông già đã hoàn toàn kiệt sức, xương cốt toàn thân như rời ra từng khúc một, muốn đứng cũng không sao đứng lên nổi, đành để ông ngồi yên ở đó trông chừng Đinh Tư Điềm. Hai cái đèn pin chúng tôi dùng đã rất lâu, mà pin dự trữ thì đã rơi sạch ở trước cửa căn hầm số “0”, cũng không biết chỗ pin còn lại này có thể duy trì được bao lâu nữa, ở trong gian mật thất tối đen như mực, làm việc gì cũng phải dựa dẫm vào nguồn sáng, vì vậy không đến lúc quan trọng, chúng tôi cũng không nỡ tùy tiện sử dụng, đành lục tìm trong túi áo ra hai đoạn nến thừa lúc trước, đốt lên làm đèn dùng tạm.
Hiện giờ cửa mật thất đã bị cây thi sâm chết bịt kín, những xác chết thối rữa lúc nhúc trên bộ rễ của nó nằm vương vãi khắp mặt đất, thêm nữa, trước cửa còn bầy nhầy lăn lóc vô số cơ quan nội tạng của đủ các loại sinh vật, và mùi thuốc chống thối rữa chảy lênh láng thành dòng, hoàn cảnh bên trong gian mật thất này ác liệt thế nào, thiết tưởng ai nấy đều có thể hình dung. Chỉ có chỗ góc tường nơi chúng tôi đang đứng đây là không khí còn lưu thông, hô hấp không đến nỗi khó khăn cho lắm, bước vào sâu bên trong một chút, liền cảm thấy hai mắt cay sè, mỗi lần hít thở bằng mũi đều sặc toàn bụi là bụi.
Tôi và Tuyền béo lấy vạt áo bẩn thỉu loang lổ máu quấn chặt mũi miệng, đang chuẩn bị tìm kiếm thì lão Dương Bì đang dựa vào góc tường trông chừng Đinh Tư Điềm bỗng kéo gấu áo tôi một cái. Ông già vẫn chưa lấy lại được hơi sức, không nói nổi tiếng nào, chỉ khó nhọc chỉ chỉ vào cái xác người đàn bà bộ tộc Tiên Ty nằm trên bệ xi măng, nhìn thần sắc trên gương mặt ông, tôi đoán một là ông già đang hoảng sợ bất an, hai là muốn nhắc nhở chúng tôi nhất thiết phải đề phòng cái xác đó thình lình bật dậy bắt người.
Tôi gật đầu với lão Dương Bì, nghĩ bụng, giờ việc cứu người quan trọng hơn, cái xác ấy từ nãy giờ vẫn chưa có động tĩnh gì, tốt nhất đừng đụng đến nó thì hơn. Đoạn, tôi đưa chân khẽ đá cái rương đồng ra xa, rồi nói với lão Dương Bì và Tuyền béo: “Chuyện về vu nữ của bộ tộc Tiên Ty rốt cuộc là như thế nào, chúng ta đều chẳng biết. Nhưng Mao chủ tịch đã dạy, cần phải đoàn kết, đoàn kết tất cả các lực lượng có thể đoàn kết được. Tôi hiểu đến đâu dùng đến đó, áp dụng mọi lúc mọi nơi, vậy nên đã nghĩ đến khả năng chúng ta có thể đoàn kết đoàn kết với cái xác ấy. Thân phận của nữ vu sư, đại khái chắc cũng không khác ni cô trong chùa chiền cho lắm, tuy là một công việc thuộc phạm trù mê tín của chủ nghĩ phong kiến, nhưng xét cho cùng thì bản thân cô ta cũng không có sản nghiệp gì cả. Giống như ni cô trong chùa vậy, chùa chiền miếu mạo đều là tài sản quốc gia chứ không phải sở hữu của cá nhân bọn họ, theo lẽ đó mà phân tích thì có thể xác định được thành phần giai cấp của nữ vu sư thuộc bộ tộc Tiên Ty này, có lẽ cần phải xếp vào giai cấp vô sản ừm... nếu... đương nhiên, nếu cô ta tự nguyện làm vu sư, thì cùng lắm cũng chỉ là người làm nghề tự do thôi. Mâu thuẫn giữa giai cấp tiểu tư sản và giai cấp vô sản chúng ta là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, người không phạm đến ta, ta cũng không phạm đến người, huống hồ cái xác này có lẽ cũng liên quan đến vụ thảm họa xảy ra ở viện nghiên cứu này, coi như là có công với kháng chiến chống Nhật rồi còn gì. Cho dù cô ta và chúng ta có không hợp nhau cho lắm, thì cũng nên nước sông không phạm nước giếng, mọi người thấy tôi nói có đúng không?”
Lão Dương Bì bình thường học tập tri thức lý luận chẳng ra sao, nghe không hiểu tôi nói gì, chỉ trợn mắt lên lắc đầu, cũng chẳng rõ không đồng ý với quan điểm của tôi, hay muốn bảo chúng tôi không được thiếu cảnh giác. Trình độ đấu tranh giai cấp của Tuyền béo tất nhiên cao hơn lão Dương Bì nhiều, cậu ta lập tức tỏ vẻ tán đồng với phân tích này của tôi, tuy nhiên, Tuyền béo cũng góp ý thêm, trong tình hình kẻ địch ở trong tối ta ở ngoài sáng thế này, không thể không tăng cường cẩn thận, phải hết sức để ý, vạn nhất mụ vu sư kia lại cam tâm tuẫn táng theo giai cấp địa chủ, mưu đồ lật lọng thì nhất quyết không được nương tình, cứ đập vỡ mẹ đầu nó ra đi.
Vì hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ, hễ khi nào không có chủ kiến, chúng tôi chỉ còn một cách duy nhất là tìm kiếm đường hướng trong bốn quyển Mao tuyển. Mà cũng bởi chưa từng đọc qua sách nào khác nên gốc rễ duy nhất của lý luận chính là cuốn sách nhỏ màu đỏ ấy, đối với chúng tôi, nó giống như một cuốn bách khoa toàn thư bách chiến bách thắng, từ đó có thể đúc rút ra được cương lĩnh đấu tranh, khiến cho mọi hành vi đều có tính mục đích của nó. Giờ đã có phương hướng hành động, thành phần giai cấp đã phân định rõ ràng, chúng tôi cũng không còn hoảng hốt như lúc vừa trông thấy cái xác đó nữa rồi.
Chúng tôi tập trung tinh thần, lê tấm thân mệt mỏi đi xung quanh tìm kiếm trong gian mật thất. Vật phẩm để trong này thực sự rất nhiều, ngoài tiêu bản của các cơ quan trên cơ thể người và động vật, còn có vô số các chai thuốc nước thuốc viên khác. Kỳ thực lúc ấy, chính bản thân tôi cũng không biết rốt cuộc phải tìm thứ gì mới giải độc cho Đinh Tư Điềm được, chẳng qua chỉ là không thể khiến mình dừng lại, bó tay bàng quan nhìn chiến hữu thân thiết chết đi mà thôi. Khi đó, chúng tôi chỉ nghĩ, cái viện nghiên cứu này đã nuôi trăn vảy gấm để nghiên cứu, thể nào chẳng có thuốc men gì đấy liên quan. Nhưng khi nhìn những bình thuốc bày hàng dãy trong các tủ, tôi và Tuyền béo đều không khỏi đớ người ra.
Hai chúng tôi đã đến vùng núi tham gia lao động sản xuất được một thời gian, có nắm được một số phương pháp cấp cứu của dân gian, nhưng tri thức y học thì chẳng có là bao, cũng chưa từng học hành gì về mặt này cả, toàn bận bịu tham gia cách mạng thế giới, lấy đâu ra thời gian mà học hành gì chứ? Ngoại trừ thời thiếu niên có tiếp xúc với một ít chất hóa học thường gặp vì nghịch ngợm ra, bọn tôi hoàn toàn không có chút hiểu biết gì với các loại thuốc phức tạp lằng nhằng này. Rốt cuộc thứ gì mới giải độc của trăn vảy gấm được đây? Thuốc tiêm, thuốc nước hay thuốc viên? Dấu hiệu nhận biết có thể là gì? Tôi tuyệt đối không có chút khái niệm nào. Mà chuyện này không thể chỉ dựa vào suy đoán được, thuốc nào chẳng có ba phần độc dược, chẳng may uống lầm thuốc, không chừng chưa kịp chết vì trúng độc đã toi mạng vì thuốc trước rồi. Kể cả tôi và Tuyền béo có liều mình đem thân thử thuốc cho chiến hữu trước, thì cũng không thể nào thử ra được cả trăm nghìn loại thuốc khác nhau thế này.
Tuyền béo ủ rũ nói: “Thôi toi rồi Nhất ạ, với trình độ của chúng ta, đến tìm mấy viên thuốc giảm đau trong cái đống này cũng không tìm được nữa là, giờ có khi đặt thuốc giải ngay trước mặt, hai thằng mình cũng chẳng nhận ra đâu. Với lại, dù tìm được thuốc giải độc, thế thì phải tiêm vào cánh tay hay là tiêm vào mông đây? Nếu là thuốc viên thì phải uống mấy viên? Uống lúc nào? Mấy chuyện này anh em ta chẳng biết gì hết cả, tính sao bây giờ?”
Tôi cũng lấy làm hoang mang, có điều, chỉ cần hẵng còn thời gian, tôi tuyệt đối không chịu từ bỏ nỗ lực. Mắt thấy các loại thuốc tiêm, thuốc uống trong tủ nhiều đến hoa cả mắt, mà chúng tôi thậm chí còn chẳng biết những thứ trong tủ này có phải thuốc men gì hay không nữa. Dù sao thì thời bấy giờ hãy còn trẻ, chuyện gì cũng nghĩ hết sức đơn giản, đâu biết rằng hiện thực tàn khốc không thể thay đổi theo ý chí của con người được.
Bấy giờ, tôi cảm thấy không thể lãng phí thời gian vào đống thuốc men này được nữa, bèn suy tính cách khác. Nghĩ kỹ lại, bỗng nhớ ra Đinh Tư Điềm từng kể cho chúng tôi nghe chuyện bố cô bắt trăn vảy gấm như thế nào. Loài trăn vảy gấm ấy trườn nhanh như gió, không phải thứ tầm thường. Hầu hết các loài trăn đều không có độc, bọn chúng tuy hung tàn, nhưng cũng chỉ có thể dựa vào sức lực siết chết người và súc vật làm con mồi, duy chỉ có trăn vảy gấm là loại đặc biệt nhất trong các loài trăn, tính tình cũng dâm nhất, trên xương đầu có “phân thủy châu”, ở xương đuôi có “như ý câu”, ngậm trong miệng lúc hành sự có thể ngủ với cả mười cô một lúc, trong sách Hoàng đế nội kinh gọi đó là chí bảo. Chất độc của loài trăn vảy gấm này phun ra cực kỳ nguy hiểm với phái nữ, độc tính tương tự như nọc rắn. Nghe nói, ở những nơi có độc trùng, rắn rết xuất hiện, trong vòng năm bước ắt có thảo được giải độc, nhưng ở nơi trăn vảy gấm sinh sống, chỉ có “quan âm đằng” là khắc tinh của nó, mà loại dây leo này cũng chỉ có thể xua đuổi trăn vảy gấm, chứ không hề có tác dụng giải độc.
Nếu không tìm được thuốc giải nhân tạo, mà tìm đường sống khác, thì trừ phi quanh đây có rắn độc, tìm được loại thảo dược có thể giải độc rắn, may ra còn có hy vọng. Nhưng chết người nhất là ở khu động Bách Nhãn này, loại trùng độc gì cũng có, duy chỉ không thấy rắn độc xuất hiện. E càng nghĩ càng cuống, gân xanh trên trán giật giật liên hồi, tâm trạng càng lúc càng thêm rối bời. Vừa nghĩ ngợi tôi vừa tiếp tục đi sâu vào gian mật thất, không lật tung cả cái kho bí mật này lên, rốt cuộc cũng không thể nào yên tâm cho được.
Tuyền béo tay khum khum che ngọn nến đi phía sau tôi, còn tôi thì không bật đèn pin, đầu óc rối bời, cứ thế cắm đầu lùi lũi đi về phía trước trong bóng tối, cũng không để ý xem mình đang ở đâu, thình lình đập “bốp” mặt vào một tấm thủy tinh dày. Cú va chạm khá đau, tôi vừa làu bàu chửi đổng vừa ôm trán, ngẩng đầu lên xem là cái gì. Trong ánh sáng của ngọn nến Tuyền béo đang cầm sau lưng, chỉ thấy trước mặt tôi là một cái tủ kê ngang sát tường, bên trong để đầy các lọ thủy tinh vừa lớn vừa dài. Cách hai lần thủy tinh, tôi chỉ lờ mờ trông thấy bên trong hình như là bộ xương trắng phớ, nhìn hình dạng xem ra không phải xương người.
Tôi và Tuyền béo đều lấy làm lạ, tiêu bản xương cốt thì cần gì phải cất kỹ thế này? Tuyền béo lập tức bước lên vừa lắc vừa giật, mở cửa tủ. Thì ra bên trong cái tủ lớn này có mười mấy lọ thủy tinh bịt kín bằng sáp, đựng toàn tiêu bản của một số loài thú kỳ dị, thậm chí còn có cả một cái xác khô của trẻ con thời cổ đại nữa. Phỏng chừng đây là những thứ quan trọng, nên mới cần đến hai lần ngăn cách với môi trường bên ngoài như thế. Trong đó, cái bình chứa bộ xương trắng là nổi bật nhất, bình cao gần bằng một người trưởng thành, rót đầy chất lỏng màu vàng nhạt, một bộ xương trông như xương trăn hay mãng xà gì đó cuộn ở bên trong, xương trắng hếu không có một chút thịt thừa nào dính vào.
Trong đầu tôi và Tuyền béo cùng hiện lên một ý nghĩ, “xương trăn”? Bộ xương này rất có thể là của một con trăn, nhưng không hiểu có tác dụng gì, trăn gì mà quý giá đến mức phải giữ gìn kỹ thế này? Nghe nói rắn có thể ngâm rượu được, lẽ nào xương trăn cũng ngâm rượu được? Chúng tôi giơ ngọn nến lại xem từ trên xuống dưới, vừa thấy cái xương đuôi, tôi liền lập tức hiểu ra ngay. Đây là xương của con trăn vảy gấm, con này còn lớn hơn con chúng tôi gặp phải trong lò đốt xác nhiều. Xem ra, ở động Bách Nhãn này từng có ít nhất là hai con trở lên. Mà cái con bị rơi xuống lò đốt xác kia cũng thật đen đủi, bọn rắn độc hay trăn kỳ thực sợ nhất chính là khói dầu mỡ, nó chết trong cái lò ấy cũng chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi. Tôi vốn còn định nếu qua được cửa ải này, tôi sẽ quay lại đó thu dọn xương cốt cho con trăn khốn nạn ấy. Thứ này giá cả rất cao, có thể đổi được ngoại tệ, đối với cách mạng thế giới là một sự cống hiến to lớn, nếu có thể lấy công này chuộc lại tội làm mất bò ngựa, thì có lẽ lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm sẽ không phải chịu trách nhiệm gì.
Tuyền béo hỏi tôi, ngâm thế này có phải để làm rượu giải độc không? Tôi lắc đầu nói: “Sinh vật trên thế gian này đều là thứ này khắc thứ kia, chẳng bao giờ nghe có chuyện tự mình khắc mình cả. Xương trăn không thể giải được độc của trăn phun ra, điều này là chuyện bình thường...” Lúc nói những lời này, quả tim tôi như đã chìm xuống đáy biển, không sao kìm được nỗi thất vọng trong lòng, đưa tay ra rờ lên cái bình thủy tinh đựng bộ xương trăn ấy. Không ngờ lúc ánh nến chiếu lên tay, tôi bỗng phát hiện mu bàn tay mình toàn là những nốt đỏ li ti. Thấy thế, Tuyền béo vội giơ tay lên xem thử, tình trạng cũng giống hệt như thế. Hai chúng tôi lập tức như bị dội cho một chậu nước đá, xem ra bọn tôi đã trúng phải độc của cây thi sâm kia rồi.
Nhưng chúng tôi còn chưa kịp buồn bã, đã phát hiện ra sự lạ khác. Trong ánh sáng chập chờn của ngọn nến, chúng tôi giơ hai bàn tay lên, vậy mà trên bình thủy tinh lại hiện lên bóng của ba bàn tay. Tôi nghĩ đó là do thủy tinh phản quang hay nguyên nhân gì đấy tương tự, song lại cũng cảm thấy hơi là lạ, bèn thử ấn bàn tay Tuyền béo xuống, trên bình thủy tinh vẫn còn bóng một bàn tay nữa, vươn ra đó mà không nhúc nhích gì cả. Hai chúng tôi đều bất giác lùi lại nửa bước, trong cái tủ chứa tiêu bản ấy có người chết đang vươn tay về phía chúng tôi? Hay là... sau lưng có người đang bắt chước động tác của chúng tôi? Tôi vội quay ngoắt đầu ra sau, không thấy gì lạ, Tuyền béo lại giơ tay lên vẫy vẫy. Cái bóng bàn tay hiện lên trên bình vẫn không nhúc nhích, bên trong cái bình to tướng đựng bộ xương trăn ấy hình như còn có một người chết.
Cảm giác băng lạnh khi đầu ngón tay chạm vào kim loại, truyền qua tôi hơi thở chết chóc của thế giới khác. Thế giới ấy dĩ nhiên không thuộc về người sống, ngón tay tôi chạm phải cái mặt nạ bằng kim loại, giật nảy lên, lập tức rụt ngay về theo bản năng. Nhưng tôi đang ngồi dựa vào góc tường, rõ ràng có thể cảm thấy Đinh Tư Điềm đang nằm ngay bên cạnh mình chứ không phải ai khác.
Tôi thậm chí chẳng còn kịp sợ hãi, vội vàng xoay đèn pin qua bật lên chiếu vào chỗ bên cạnh mình. Đinh Tư Điềm đúng là vẫn đang nằm ngay ngắn dưới đất, có điều, vừa nãy chẳng ai chú ý đến, phía trước bức tường ngay bên cạnh mặt cô có một cái rương đồng nhỏ, trên nắp rương chạm nổi hình một con chồn lông vàng. Cái rương đồng đã lốm đốm hoen gỉ ấy khá thấp, nắp rương áng chừng chỉ cao ngang mặt Đinh Tư Điềm đang nằm, vừa nãy tôi quơ tay, liền rờ phải cái đầu con chồn lông vàng trên nắp rương. Tạo hình con chồn này hết sức kỳ quái, tuy vẫn nhìn ra là giống hoàng bì tử, nhưng lại được nhân hóa cao độ, cực giống mặt người, khiến tôi hiểu lầm đó là mặt nạ của cái xác Tiên Ty kia.
Tuyền béo nghe thấy tiếng động cũng nhổm người bò lại xem. Thời bấy giờ, tinh lực của chúng tôi tràn trề đến độ khó mà tưởng tượng nổi, trải mấy phen vào sinh ra tử, mình mẩy đầy thương tích, bụng thì rỗng không, vậy mà ác đấu một phen xong chỉ cần nghỉ ngơi giây lát là lại khỏe như trâu, sau này hồi tưởng lại, tôi cũng thấy kỳ quái, tại sao mình có thể kiên trì đến lúc ấy vẫn không ngã vật ra nhỉ? Không kể yếu tố tuổi trẻ khí thịnh, tôi nghĩ, còn một nguyên nhân chủ yếu nhất, thực ra cực kỳ đơn giản và cũng đơn thuần lắm. Thời đó, chúng tôi thực sự cho rằng mọi điều mình làm, đều là cống hiến tuổi thanh xuân để giải phóng toàn nhân loại khỏi biển lửa áp bức bóc lột, tuyệt đối không mảy may nghi ngờ. Tín ngưỡng có sức mạnh vô cùng vô tận, những người chưa từng thực sự sùng bái một lực lượng nào đó tự đáy lòng làm sao có thể giác ngộ được điều này.
Tôi và Tuyền béo dịch Đinh Tư Điềm sang một bên, châu đầu quan sát kỹ cái rương đồng. Nhìn bề ngoài, cái rương thần bí cũ kỹ lốm đốm đầy vết hoen gỉ, bốn mặt đều chạm khắc đạo bùa, tôi nhìn mà chẳng hiểu gì hết. Có điều, rương khảm nạm vô số đá quý và tơ vàng, hết sức hoa lệ lộng lẫy, vừa nhìn đã biết không phải đồ cổ tầm thường, không giống các loại rương chúng tôi vẫn thường thấy, nắp không có bản lề, mà giống như cái quan tài, phải nhấc cả nắp lên mới mở ra xem có gì bên trong được.
Thực tế, cái rương đồng này quả cũng khá giống chiếc quan tài bằng đồng nhỏ nhắn. Giờ thì sự việc đã rõ ràng đâu ra đó rồi, thứ bị bọn Nê Hội khai quật trong miếu Hoàng đại tiên ở Đại Hưng An Lĩnh chắc đến chín chín phần trăm chính là cái rương đồng cổ xưa trông như cái quan tài này. Nhìn kỹ con hoàng bì tử đáng ghét chạm khắc trên nắp rương, thấy mặt mũi nó khá giống người, khe hở giữa nắp và thân rương vẫn còn dấu vết bị lửa đốt, thiết tưởng, cái rương này đã từng bị người ta mở ra rồi.
Tuyền béo nổi máu hiếu kỳ, nói: “Cái rương đồng này nhỏ hơn tưởng tượng của chúng ta nhiều, không hiểu bên trong thứ quái quỷ này đựng cái khỉ mốc gì nhỉ?” Miệng nói, tay cậu ta đã thò ra định mở xem cho rõ ràng. Hồi trước, bọn tôi tham gia phong trào đả phá “tứ cựu” cũng đập nhiều đồ cổ rồi, nên cậu ta cũng chẳng coi trọng cái rương đồng ấy cho lắm.
Tôi vội cản: “Để yên đấy, cái rương này tuy nhỏ, nhưng xưa vẫn có câu, ‘ao nông lắm rùa, miếu nhỏ lắm ma,’ trước lúc chết, tên người Nhật bị kẹt ở mật đạo kia đã muốn chạy từ đây ra ngoài, tại sao hắn ta phải chạy chứ? Chúng ta chỉ cần suy ngược một chút là có thể rút ngay ra kết luận, cái viện nghiên cứu này không dưng lại chết bao nhiêu người, sợ rằng cũng khó tránh khỏi can hệ với cái rương đồng và xác chết nằm kia. Chúng ta còn sống được đến giờ này, chắc chắn là vì còn chưa làm một việc: đó chính là chưa mở cái rương đồng này ra. Nắp rương mà được nhấc lên lần nữa, chỉ e chúng ta sẽ chẳng còn cách nào sống sót rời khỏi đây được mất. Điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ địch là bảo tồn lực lượng của bên mình trước đã, không thể để xảy ra những hy sinh vô ích được.”
Tuyền béo gật đầu đồng ý ngay, cậu ta cũng tiện thể tìm thêm một cái cớ nữa: “Để đề phòng kẻ thù giai cấp trước khi diệt vong còn điên cuồng phản kích, tốt nhất đừng đụng đến cái rương này nữa, hình như tôi cũng đã lại sức một chút rồi, chúng ta mau mau nghĩ cách cứu Tư Điềm đi thôi. Nhất à... cậu nói xem... còn cứu được không nhỉ?” Tới đây, Tuyền béo ngắc ngứ không dám nói tiếp, cứ lúng ba lúng búng, chắc là lo lắng cho Đinh Tư Điềm quá, nên tâm lý không khỏi có phần dao động. Đối với cậu ta mà nói, tình trạng thế này thực sự rất hiếm khi xảy ra.
Tôi nói với Tuyền béo: “Chỉ cần chúng ta đoàn kết, chỉ cần chúng ta có dũng khí, chỉ cần chúng ta dám đấu tranh, không sợ khó khăn, tiếp tục tiến lên, kiên trì tranh đấu, toàn thế giới nhất định sẽ thuộc về nhân dân, tất cả ma quỷ yêu tà rồi nhất định sẽ bị tiêu diệt. Ánh ban mai của ngày thắng lợi sẽ nhanh chóng chiếu khắp địa cầu, tôi thấy gian mật thất này cũng khá nhiều đồ đạc, ta cứ thử tìm kiếm một lượt nữa xem sao...”
Nói đoạn, tôi quay lại kiểm tra tình trạng của Đinh Tư Điềm. Tính từ khi cô có dấu hiệu trúng độc của con trăn vảy gấm, dựa theo các truyền thuyết về loại chất độc này, chúng tôi đoán nhiều nhất là cô còn khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Giờ tuy mới chưa được nửa ngày, nhưng sau mấy phen kinh hãi cực độ, cộng với các vết thương bên ngoài, chất độc đã ngấm sâu vào tận xương cốt, xem chừng dù thế nào cũng không thể cầm cự thêm một ngày đêm, nhiều lắm chỉ được hai tiếng đồng hồ nữa là cùng. Một khi chất độc công tâm, sắc mặt từ xanh chuyển sang đen, thì dù có tìm được thuốc giải độc cũng chẳng thể nào cứu nổi.
Tôi biết sự việc không thể chần chừ thêm, không thể không phát huy tinh thần liên tục chiến đấu, vội bảo Tuyền béo đỡ mình đứng lên. Trước mắt, không thể trông mong gì ở lão Dương Bì, ông già đã hoàn toàn kiệt sức, xương cốt toàn thân như rời ra từng khúc một, muốn đứng cũng không sao đứng lên nổi, đành để ông ngồi yên ở đó trông chừng Đinh Tư Điềm. Hai cái đèn pin chúng tôi dùng đã rất lâu, mà pin dự trữ thì đã rơi sạch ở trước cửa căn hầm số “0”, cũng không biết chỗ pin còn lại này có thể duy trì được bao lâu nữa, ở trong gian mật thất tối đen như mực, làm việc gì cũng phải dựa dẫm vào nguồn sáng, vì vậy không đến lúc quan trọng, chúng tôi cũng không nỡ tùy tiện sử dụng, đành lục tìm trong túi áo ra hai đoạn nến thừa lúc trước, đốt lên làm đèn dùng tạm.
Hiện giờ cửa mật thất đã bị cây thi sâm chết bịt kín, những xác chết thối rữa lúc nhúc trên bộ rễ của nó nằm vương vãi khắp mặt đất, thêm nữa, trước cửa còn bầy nhầy lăn lóc vô số cơ quan nội tạng của đủ các loại sinh vật, và mùi thuốc chống thối rữa chảy lênh láng thành dòng, hoàn cảnh bên trong gian mật thất này ác liệt thế nào, thiết tưởng ai nấy đều có thể hình dung. Chỉ có chỗ góc tường nơi chúng tôi đang đứng đây là không khí còn lưu thông, hô hấp không đến nỗi khó khăn cho lắm, bước vào sâu bên trong một chút, liền cảm thấy hai mắt cay sè, mỗi lần hít thở bằng mũi đều sặc toàn bụi là bụi.
Tôi và Tuyền béo lấy vạt áo bẩn thỉu loang lổ máu quấn chặt mũi miệng, đang chuẩn bị tìm kiếm thì lão Dương Bì đang dựa vào góc tường trông chừng Đinh Tư Điềm bỗng kéo gấu áo tôi một cái. Ông già vẫn chưa lấy lại được hơi sức, không nói nổi tiếng nào, chỉ khó nhọc chỉ chỉ vào cái xác người đàn bà bộ tộc Tiên Ty nằm trên bệ xi măng, nhìn thần sắc trên gương mặt ông, tôi đoán một là ông già đang hoảng sợ bất an, hai là muốn nhắc nhở chúng tôi nhất thiết phải đề phòng cái xác đó thình lình bật dậy bắt người.
Tôi gật đầu với lão Dương Bì, nghĩ bụng, giờ việc cứu người quan trọng hơn, cái xác ấy từ nãy giờ vẫn chưa có động tĩnh gì, tốt nhất đừng đụng đến nó thì hơn. Đoạn, tôi đưa chân khẽ đá cái rương đồng ra xa, rồi nói với lão Dương Bì và Tuyền béo: “Chuyện về vu nữ của bộ tộc Tiên Ty rốt cuộc là như thế nào, chúng ta đều chẳng biết. Nhưng Mao chủ tịch đã dạy, cần phải đoàn kết, đoàn kết tất cả các lực lượng có thể đoàn kết được. Tôi hiểu đến đâu dùng đến đó, áp dụng mọi lúc mọi nơi, vậy nên đã nghĩ đến khả năng chúng ta có thể đoàn kết đoàn kết với cái xác ấy. Thân phận của nữ vu sư, đại khái chắc cũng không khác ni cô trong chùa chiền cho lắm, tuy là một công việc thuộc phạm trù mê tín của chủ nghĩ phong kiến, nhưng xét cho cùng thì bản thân cô ta cũng không có sản nghiệp gì cả. Giống như ni cô trong chùa vậy, chùa chiền miếu mạo đều là tài sản quốc gia chứ không phải sở hữu của cá nhân bọn họ, theo lẽ đó mà phân tích thì có thể xác định được thành phần giai cấp của nữ vu sư thuộc bộ tộc Tiên Ty này, có lẽ cần phải xếp vào giai cấp vô sản ừm... nếu... đương nhiên, nếu cô ta tự nguyện làm vu sư, thì cùng lắm cũng chỉ là người làm nghề tự do thôi. Mâu thuẫn giữa giai cấp tiểu tư sản và giai cấp vô sản chúng ta là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, người không phạm đến ta, ta cũng không phạm đến người, huống hồ cái xác này có lẽ cũng liên quan đến vụ thảm họa xảy ra ở viện nghiên cứu này, coi như là có công với kháng chiến chống Nhật rồi còn gì. Cho dù cô ta và chúng ta có không hợp nhau cho lắm, thì cũng nên nước sông không phạm nước giếng, mọi người thấy tôi nói có đúng không?”
Lão Dương Bì bình thường học tập tri thức lý luận chẳng ra sao, nghe không hiểu tôi nói gì, chỉ trợn mắt lên lắc đầu, cũng chẳng rõ không đồng ý với quan điểm của tôi, hay muốn bảo chúng tôi không được thiếu cảnh giác. Trình độ đấu tranh giai cấp của Tuyền béo tất nhiên cao hơn lão Dương Bì nhiều, cậu ta lập tức tỏ vẻ tán đồng với phân tích này của tôi, tuy nhiên, Tuyền béo cũng góp ý thêm, trong tình hình kẻ địch ở trong tối ta ở ngoài sáng thế này, không thể không tăng cường cẩn thận, phải hết sức để ý, vạn nhất mụ vu sư kia lại cam tâm tuẫn táng theo giai cấp địa chủ, mưu đồ lật lọng thì nhất quyết không được nương tình, cứ đập vỡ mẹ đầu nó ra đi.
Vì hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ, hễ khi nào không có chủ kiến, chúng tôi chỉ còn một cách duy nhất là tìm kiếm đường hướng trong bốn quyển Mao tuyển. Mà cũng bởi chưa từng đọc qua sách nào khác nên gốc rễ duy nhất của lý luận chính là cuốn sách nhỏ màu đỏ ấy, đối với chúng tôi, nó giống như một cuốn bách khoa toàn thư bách chiến bách thắng, từ đó có thể đúc rút ra được cương lĩnh đấu tranh, khiến cho mọi hành vi đều có tính mục đích của nó. Giờ đã có phương hướng hành động, thành phần giai cấp đã phân định rõ ràng, chúng tôi cũng không còn hoảng hốt như lúc vừa trông thấy cái xác đó nữa rồi.
Chúng tôi tập trung tinh thần, lê tấm thân mệt mỏi đi xung quanh tìm kiếm trong gian mật thất. Vật phẩm để trong này thực sự rất nhiều, ngoài tiêu bản của các cơ quan trên cơ thể người và động vật, còn có vô số các chai thuốc nước thuốc viên khác. Kỳ thực lúc ấy, chính bản thân tôi cũng không biết rốt cuộc phải tìm thứ gì mới giải độc cho Đinh Tư Điềm được, chẳng qua chỉ là không thể khiến mình dừng lại, bó tay bàng quan nhìn chiến hữu thân thiết chết đi mà thôi. Khi đó, chúng tôi chỉ nghĩ, cái viện nghiên cứu này đã nuôi trăn vảy gấm để nghiên cứu, thể nào chẳng có thuốc men gì đấy liên quan. Nhưng khi nhìn những bình thuốc bày hàng dãy trong các tủ, tôi và Tuyền béo đều không khỏi đớ người ra.
Hai chúng tôi đã đến vùng núi tham gia lao động sản xuất được một thời gian, có nắm được một số phương pháp cấp cứu của dân gian, nhưng tri thức y học thì chẳng có là bao, cũng chưa từng học hành gì về mặt này cả, toàn bận bịu tham gia cách mạng thế giới, lấy đâu ra thời gian mà học hành gì chứ? Ngoại trừ thời thiếu niên có tiếp xúc với một ít chất hóa học thường gặp vì nghịch ngợm ra, bọn tôi hoàn toàn không có chút hiểu biết gì với các loại thuốc phức tạp lằng nhằng này. Rốt cuộc thứ gì mới giải độc của trăn vảy gấm được đây? Thuốc tiêm, thuốc nước hay thuốc viên? Dấu hiệu nhận biết có thể là gì? Tôi tuyệt đối không có chút khái niệm nào. Mà chuyện này không thể chỉ dựa vào suy đoán được, thuốc nào chẳng có ba phần độc dược, chẳng may uống lầm thuốc, không chừng chưa kịp chết vì trúng độc đã toi mạng vì thuốc trước rồi. Kể cả tôi và Tuyền béo có liều mình đem thân thử thuốc cho chiến hữu trước, thì cũng không thể nào thử ra được cả trăm nghìn loại thuốc khác nhau thế này.
Tuyền béo ủ rũ nói: “Thôi toi rồi Nhất ạ, với trình độ của chúng ta, đến tìm mấy viên thuốc giảm đau trong cái đống này cũng không tìm được nữa là, giờ có khi đặt thuốc giải ngay trước mặt, hai thằng mình cũng chẳng nhận ra đâu. Với lại, dù tìm được thuốc giải độc, thế thì phải tiêm vào cánh tay hay là tiêm vào mông đây? Nếu là thuốc viên thì phải uống mấy viên? Uống lúc nào? Mấy chuyện này anh em ta chẳng biết gì hết cả, tính sao bây giờ?”
Tôi cũng lấy làm hoang mang, có điều, chỉ cần hẵng còn thời gian, tôi tuyệt đối không chịu từ bỏ nỗ lực. Mắt thấy các loại thuốc tiêm, thuốc uống trong tủ nhiều đến hoa cả mắt, mà chúng tôi thậm chí còn chẳng biết những thứ trong tủ này có phải thuốc men gì hay không nữa. Dù sao thì thời bấy giờ hãy còn trẻ, chuyện gì cũng nghĩ hết sức đơn giản, đâu biết rằng hiện thực tàn khốc không thể thay đổi theo ý chí của con người được.
Bấy giờ, tôi cảm thấy không thể lãng phí thời gian vào đống thuốc men này được nữa, bèn suy tính cách khác. Nghĩ kỹ lại, bỗng nhớ ra Đinh Tư Điềm từng kể cho chúng tôi nghe chuyện bố cô bắt trăn vảy gấm như thế nào. Loài trăn vảy gấm ấy trườn nhanh như gió, không phải thứ tầm thường. Hầu hết các loài trăn đều không có độc, bọn chúng tuy hung tàn, nhưng cũng chỉ có thể dựa vào sức lực siết chết người và súc vật làm con mồi, duy chỉ có trăn vảy gấm là loại đặc biệt nhất trong các loài trăn, tính tình cũng dâm nhất, trên xương đầu có “phân thủy châu”, ở xương đuôi có “như ý câu”, ngậm trong miệng lúc hành sự có thể ngủ với cả mười cô một lúc, trong sách Hoàng đế nội kinh gọi đó là chí bảo. Chất độc của loài trăn vảy gấm này phun ra cực kỳ nguy hiểm với phái nữ, độc tính tương tự như nọc rắn. Nghe nói, ở những nơi có độc trùng, rắn rết xuất hiện, trong vòng năm bước ắt có thảo được giải độc, nhưng ở nơi trăn vảy gấm sinh sống, chỉ có “quan âm đằng” là khắc tinh của nó, mà loại dây leo này cũng chỉ có thể xua đuổi trăn vảy gấm, chứ không hề có tác dụng giải độc.
Nếu không tìm được thuốc giải nhân tạo, mà tìm đường sống khác, thì trừ phi quanh đây có rắn độc, tìm được loại thảo dược có thể giải độc rắn, may ra còn có hy vọng. Nhưng chết người nhất là ở khu động Bách Nhãn này, loại trùng độc gì cũng có, duy chỉ không thấy rắn độc xuất hiện. E càng nghĩ càng cuống, gân xanh trên trán giật giật liên hồi, tâm trạng càng lúc càng thêm rối bời. Vừa nghĩ ngợi tôi vừa tiếp tục đi sâu vào gian mật thất, không lật tung cả cái kho bí mật này lên, rốt cuộc cũng không thể nào yên tâm cho được.
Tuyền béo tay khum khum che ngọn nến đi phía sau tôi, còn tôi thì không bật đèn pin, đầu óc rối bời, cứ thế cắm đầu lùi lũi đi về phía trước trong bóng tối, cũng không để ý xem mình đang ở đâu, thình lình đập “bốp” mặt vào một tấm thủy tinh dày. Cú va chạm khá đau, tôi vừa làu bàu chửi đổng vừa ôm trán, ngẩng đầu lên xem là cái gì. Trong ánh sáng của ngọn nến Tuyền béo đang cầm sau lưng, chỉ thấy trước mặt tôi là một cái tủ kê ngang sát tường, bên trong để đầy các lọ thủy tinh vừa lớn vừa dài. Cách hai lần thủy tinh, tôi chỉ lờ mờ trông thấy bên trong hình như là bộ xương trắng phớ, nhìn hình dạng xem ra không phải xương người.
Tôi và Tuyền béo đều lấy làm lạ, tiêu bản xương cốt thì cần gì phải cất kỹ thế này? Tuyền béo lập tức bước lên vừa lắc vừa giật, mở cửa tủ. Thì ra bên trong cái tủ lớn này có mười mấy lọ thủy tinh bịt kín bằng sáp, đựng toàn tiêu bản của một số loài thú kỳ dị, thậm chí còn có cả một cái xác khô của trẻ con thời cổ đại nữa. Phỏng chừng đây là những thứ quan trọng, nên mới cần đến hai lần ngăn cách với môi trường bên ngoài như thế. Trong đó, cái bình chứa bộ xương trắng là nổi bật nhất, bình cao gần bằng một người trưởng thành, rót đầy chất lỏng màu vàng nhạt, một bộ xương trông như xương trăn hay mãng xà gì đó cuộn ở bên trong, xương trắng hếu không có một chút thịt thừa nào dính vào.
Trong đầu tôi và Tuyền béo cùng hiện lên một ý nghĩ, “xương trăn”? Bộ xương này rất có thể là của một con trăn, nhưng không hiểu có tác dụng gì, trăn gì mà quý giá đến mức phải giữ gìn kỹ thế này? Nghe nói rắn có thể ngâm rượu được, lẽ nào xương trăn cũng ngâm rượu được? Chúng tôi giơ ngọn nến lại xem từ trên xuống dưới, vừa thấy cái xương đuôi, tôi liền lập tức hiểu ra ngay. Đây là xương của con trăn vảy gấm, con này còn lớn hơn con chúng tôi gặp phải trong lò đốt xác nhiều. Xem ra, ở động Bách Nhãn này từng có ít nhất là hai con trở lên. Mà cái con bị rơi xuống lò đốt xác kia cũng thật đen đủi, bọn rắn độc hay trăn kỳ thực sợ nhất chính là khói dầu mỡ, nó chết trong cái lò ấy cũng chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi. Tôi vốn còn định nếu qua được cửa ải này, tôi sẽ quay lại đó thu dọn xương cốt cho con trăn khốn nạn ấy. Thứ này giá cả rất cao, có thể đổi được ngoại tệ, đối với cách mạng thế giới là một sự cống hiến to lớn, nếu có thể lấy công này chuộc lại tội làm mất bò ngựa, thì có lẽ lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm sẽ không phải chịu trách nhiệm gì.
Tuyền béo hỏi tôi, ngâm thế này có phải để làm rượu giải độc không? Tôi lắc đầu nói: “Sinh vật trên thế gian này đều là thứ này khắc thứ kia, chẳng bao giờ nghe có chuyện tự mình khắc mình cả. Xương trăn không thể giải được độc của trăn phun ra, điều này là chuyện bình thường...” Lúc nói những lời này, quả tim tôi như đã chìm xuống đáy biển, không sao kìm được nỗi thất vọng trong lòng, đưa tay ra rờ lên cái bình thủy tinh đựng bộ xương trăn ấy. Không ngờ lúc ánh nến chiếu lên tay, tôi bỗng phát hiện mu bàn tay mình toàn là những nốt đỏ li ti. Thấy thế, Tuyền béo vội giơ tay lên xem thử, tình trạng cũng giống hệt như thế. Hai chúng tôi lập tức như bị dội cho một chậu nước đá, xem ra bọn tôi đã trúng phải độc của cây thi sâm kia rồi.
Nhưng chúng tôi còn chưa kịp buồn bã, đã phát hiện ra sự lạ khác. Trong ánh sáng chập chờn của ngọn nến, chúng tôi giơ hai bàn tay lên, vậy mà trên bình thủy tinh lại hiện lên bóng của ba bàn tay. Tôi nghĩ đó là do thủy tinh phản quang hay nguyên nhân gì đấy tương tự, song lại cũng cảm thấy hơi là lạ, bèn thử ấn bàn tay Tuyền béo xuống, trên bình thủy tinh vẫn còn bóng một bàn tay nữa, vươn ra đó mà không nhúc nhích gì cả. Hai chúng tôi đều bất giác lùi lại nửa bước, trong cái tủ chứa tiêu bản ấy có người chết đang vươn tay về phía chúng tôi? Hay là... sau lưng có người đang bắt chước động tác của chúng tôi? Tôi vội quay ngoắt đầu ra sau, không thấy gì lạ, Tuyền béo lại giơ tay lên vẫy vẫy. Cái bóng bàn tay hiện lên trên bình vẫn không nhúc nhích, bên trong cái bình to tướng đựng bộ xương trăn ấy hình như còn có một người chết.