Quyển 6 - Chương 43: Bôn nguyệt
Tôi nghe Cổ Thái nói trông thấy vầng mặt trời màu trắng, căn bản chẳng hiểu thằng nhãi này đang nói bậy nói bạ cái gì nữa, còn tưởng cậu ta căng thẳng quả độ mà mê muội thần trí, dẫu sao thì áp lực tâm lý khủng khiếp do nỗi tuyệt vọng mang lại không phải là thứ một đứa trẻ mười sáu mười bảy tuổi như cậu ta có thể chịu đựng nổi.
Nhưng Minh Thúc thì giật bắn mình, ở trên biển trông thấy mặt trời màu trắng không phải là điềm tốt lành gì, những người hiểu cách xem hải tượng đều biết rõ “mặt trời trắng bệch, giờ bão ngập trời”, đó chính là dấu hiệu của đại nạn sắp sửa giáng xuống. Lão khọm già sém chút nữa là ngồi phịch xuống, cũng may tôi kịp đưa tay ra đỡ. Shirley Dương hỏi Cổ Thái: “Đừng cuống, cậu nói rõ ra xem nào.”
Cổ Thái vội chỉ tay nói: “Mọi người mau xem đi, mặt trời màu trắng...” Cả bọn đều không ngờ mặt trời mà cậu ta nói lại ở trên đỉnh đầu. Chúng tôi đang ở trong Quy Khư dưới đáy biển, sao có thể trông thấy mặt trời trên không trung được cơ chứ? Tất cả liền lập tức hướng ánh mắt lên phía trên, chẳng ngờ lại có một vật thể hình tròn màu trắng mờ mờ treo lơ lửng ở ngay chỗ đỉnh cây gỗ Kiện Mộc găm chi chít tên đá.
Vừa nãy hải khí bùng lên, long hỏa ở tầng nham thạch phía trên bùng lên, trút xuống một trận mưa lửa, không trung mù mịt hơi sương bốc lên từ mặt nước bị long hỏa hun đốt, thành ra bọn tôi không ai chú ý đến tình hình phía trên cả. Tôi lạnh toát người, không hiểu sự thể rốt cuộc ra sao, ngạc nhiên thốt lên: “Cái gì thế?” Sự việc xảy ra quá bất ngờ, nhất thời cả bọn không ai kịp định thần, chỉ hoang mang ngước nhìn, song cũng vẫn biết, thứ ở trên kia tuyệt đối không phải mặt trời.
Shirley Dương chăm chú nhìn mảng màu đen gồ hẳn lên so với xung quanh ở tầng nham thạch trên đỉnh đầu, tựa như sực nhớ ra thứ gì đó, mừng rỡ reo lên: “Đảo u linh!” Thì ra, quầng sáng trắng nhờ nhờ ấy, không phải là mặt trời như Cổ Thái nói, mà là một “cửa sổ trời” bị hải khí trong Quy Khư che khuất. Kể ra cũng hợp với lẽ thường, nơi này trên có cửa trời, dưới có dòng chảy ngầm, như vậy mới bảo đảm sinh khí trăm nghìn năm không suy giảm. Lúc chúng tôi mới tiến vào vùng biển vực xoáy San Hô, gặp đúng lúc nước triều rút, một hòn đảo màu đen lộ ra trên mặt biển, đó chính là đảo u linh thoắt ẩn thoắt hiện theo quy luật thủy triều.
Lúc nước triều dâng, hòn đảo chìm xuống, khi thủy triều rút, nó sẽ lại ló ra trên mặt biển. Mới đầu, chúng tôi còn tưởng đảo u linh là lưng con cá voi khổng lồ, chỉ sợ nó quẫy sóng làm lật tàu, sau khi nổ pháo oanh kích mới chắc chắn đó là một hòn đảo nhỏ trơ trọi trên biển. Đảo u linh chia vực xoáy San Hô thành hai khu vực Đông và Tây, chúng tôi bị con rắn biển khổng lồ tấn công, chìm vào hải nhãn ở mé phía Đông, không ngờ di tích cổ của nước Hận Thiên trong Quy Khư lại được xây ở ngay bên dưới đảo u linh như thế.
Chúng tôi càng không thể ngờ được trên đảo u linh lại có một hang động giống như cửa sổ trời, thông thẳng lên mặt biển, chắc hẳn bên ngoài đã sáng, lộ ra một mảnh trời to như cái khay, nên Cổ Thái mới tưởng lầm là trông thấy mặt trời màu trắng trước cơn bão lớn. Tôi đoán hang động như cái miệng giếng này không phải bị súng pháo trên tàu Chĩa Ba của chúng tôi bắn sập. Cây gỗ Kiện Mộc này tựa như một cây đại thụ, tên đá ghim vào xòe ra thành tán cây, trông hình thế cơ hồ muốn phá trời bay vút lên. Thì ra, bố cục totem Xạ nhật này hết sức nghiêm mật, mọi điểm đều có ý tứ sâu xa, đến giờ tôi mới cảm nhận được người dân nước Hận Thiên xưa đã tốn bao công sức để tạo ra khung cảnh như trong truyện thần thoại này. Quy Khư tuyệt đối không đơn giản chỉ là bày ra như vậy, bên trong ắt hẳn còn ẩn chứa bí mật gì đó lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, tôi thực tình cũng không đoán nổi tại sao cổ nhân lại sắp xếp như vậy.
Tuyền béo hỏi cả bọn: “Các vị, chúng ta đừng có thở vắn than dài ở đây nữa, không thấy nước đang dâng lên đấy à? Chúng ta nên bám theo cây gỗ Định hải thần châm này bò lên trên, hay là lặn xuống đáy nước tìm đường ra khác đây? Việc không thể chần chừ nữa, đi như thế nào, cần phải nhanh chóng quyết định ngay đi thôi.”
Tôi thấy cửa sổ trời trên đảo u linh thông thẳng lên sinh môn trên mặt biển, lại nghe bốn phía ầm ầm, chính là tín hiệu nước triều sắp dâng cao. Mặc dù sau khi thủy triều dâng, đảo u linh cũng bị ngập chìm dưới nước, có điều, lúc này cũng chỉ biết tranh thủ thời gian bám vào cây gỗ Kiện Mộc này mà rời khỏi Quy Khư, những chuyện khác thì đợi khi trở lên mặt biển rồi tính toán sau cũng không vội.
Tôi nghĩ tới đó, đang chuẩn bị quyết định thì Shirley Dương chợt ngăn lại: “Mới đầu tôi đã có cảm giác sử dụng Kiện Mộc tạo thành mũi tên khổng lồ thế này hình như không phù hợp với truyền thuyết cổ xưa của nền văn minh Hoa Hạ cho lắm. Người dân nước Hận Thiên tuy tự coi mình là hậu duệ của totem Xạ nhật, nhưng Kiện Mộc lại chính là thượng cổ thần mộc, có thể thông thẳng từ đáy biển đến Nguyệt cung. Đồng thời, hang động như cửa sổ trời kia lại đặt ở Nguyệt vị, nhất định là tượng trưng cho mặt trăng chứ chẳng sai. Ghi chép về nước Hận Thiên trong thư tịch cổ rất ít, có điều đỉnh đồng thời Chu Mục Vương có đúc hình ảnh truyền thuyết người dân nước Hận Thiên sau khi chết liền chạy lên mặt trăng. Bởi vậy, tôi thấy đây có lẽ không phải totem Xạ nhật, mà là đường lên mặt trăng, cho vong linh người chết sử dụng. Chúng ta leo lên theo lối này, liệu có nguy hiểm không?”
Quả tim của cả bọn đều chùng xuống, thì ra cây gỗ Kiện Mộc này không phải totem chiến tranh Xạ nhật, mà là tượng trưng cho con đường u minh dẫn linh hồn người chết lên mặt trăng, xét đến tận cùng, ngọn núi này quả nhiên là một ngôi mộ cổ nằm ngoài lẽ xét đoán thông thường. Quầng sáng trắng lóa trên đỉnh cây gỗ Kiện Mộc quả thực tựa như một vầng trăng tròn vành vạnh, khiến cho người ta có cảm giác cây thần mộc đáy biển để linh hồn được thăng hoa này tựa như chỉ cách vầng trăng kia một bước, chỉ cần leo lên đỉnh Kiện Mộc, tung người nhảy lên là có thể rời khỏi vùng Quy Khư hỗn loạn không có lối ra này rồi.
Minh Thúc thấy mặt nước xung quanh thấp thoáng bóng cá mập, tự biết nếu lặn xuống ắt khó tránh khỏi phải huyết chiến với lũ cá dữ ấy. Lão là người qua lại trên biển nhiều năm, dĩ nhiên hiểu rõ sự lợi hại của đàn cá mập, trong lòng đương nhiên muốn lên hơn muốn xuống, cuống quýt lên tiếng: “Tiểu thư Shirley Dương nói rất có lý, trên biển đích thực có truyền thuyết xa xưa về cây gỗ thần thông lên mặt trăng, có điều dù là thần mộc để oan hồn người chết nơi đáy biển lên cung trăng, thì trước mắt chúng ta cũng chỉ còn cách đặt mình vào chỗ chết để tìm nẻo sống mà thôi...” Nói đoạn, lão xông lên dẫn đầu cả bọn bám cây gỗ nghiêng nghiêng vỏ xù xì như vảy rồng, chầm chậm leo lên cửa sổ trời phía trên, miệng không ngừng lẩm bẩm khúc hát thê lương bi tráng của dân mò ngọc cho vững dạ, giọng điệu như sói tru quỷ gào: “Hải thần của con ơi, xin hãy cứu vớt lấy kẻ cô khổ này, không sợ sóng sâu nước cả, chỉ sợ không thể về nhà...”
Minh Thúc đã tranh leo lên cây thần mộc trông tựa như có thể thông tới tận cung trăng ấy trước, hơn sáu chục tuổi đầu rồi, bảo leo là leo luôn không chút chần chừ do dự, tay chân hết sức nhanh nhẹn. Tôi thấy vậy, trong lòng không khỏi chửi thầm cái lão già này đúng là hạng cá nhân chủ nghĩa chỉ biết nghĩ đến mình, chẳng lo gì cho tập thể. Nhưng hành động của lão đồng thời cũng đập tan mọi sự lo âu của chúng tôi, thôi thì được ăn cả ngã về không, đánh liều một phen vậy. Đã đến nước này, cũng chỉ còn cách cả đội bò lên cửa hang kia tìm đường thoát khỏi Quy Khư, nhưng bình ô xy và mặt nạ thì vẫn không thể vứt bỏ, để vạn nhất lối trên ấy không đi được thì vẫn còn có thể nhảy xuống nước tìm đường khác. Vậy là cả bọn cùng nghiến răng đành vác nặng, gắng sức leo lên.
Tuyền béo leo lên thứ hai, đeo bình lặn và một cái bao to tướng đựng những món vớt được, tuy hết sức nặng nề, nhưng cu cậu không nỡ vứt bỏ thứ gì. Mang vác nặng đối với cậu ta mà nói không phải là vấn đề, nhưng leo cao xưa nay vốn là nhược điểm lớn nhất của Tuyền béo. Có điều, chuyện đã đến nước này rồi, thì cậu ta cũng chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ, nhắm tịt mắt lại, chỉ nghe “bạch bạch bạch” mấy tiếng, tấm thân phì nộn đã lên được mấy mét.
Bọn chúng tôi xếp hàng một bám theo cây gỗ khổng lồ quấn nhằng nhịt xích đồng, cũng không biết khúc cây đã trải qua nghìn vạn năm này có chống chọi nổi sóng gió hay không nữa. Cúi người nhìn xuống dưới, nước biển cuồn cuộn sục sôi, nhấp nhô vô số bóng dáng tượng nô lệ bằng đồng thau, ngoài ra còn có rất nhiều cá mập lượn lờ rình rập trong làn nước đã dìm ngập quá nửa di tích thành cổ. Tôi lo Tuyền béo căng thẳng quá sẽ tuột tay ngã, bèn kêu lên với cậu ta: “Tư lệnh Vương Khải Tuyền, mau mở mắt ra xem, chúng ta sắp bò lên đến mặt trăng rồi, bà quả phụ trên cung trăng và thuốc trường sinh bất tử của bà ta đang đợi cậu đến nhận đấy.”
Tuyền béo cảm nhận được thế nước cuồn cuộn phía dưới, lại thấy gió lạnh từ trên cao quạt vù vù bên tai, nào dám mở mắt, nhưng mồm miệng thì vẫn bi bô chẳng chịu kém cạnh gì ai: “Hồ Bát Nhất, giờ là lúc nào rồi, sao cậu lại giở cái trò thất đức ấy ra hử? Cậu không biết tư lệnh Vương Khải Tuyền này vốn có cái thú lên chỗ cao là thích nhắm mắt lại trầm tư hay sao? Lòng ta sáng như gương, mở mắt ra chẳng những không thấy nàng quả phụ xinh đẹp mà chỉ có nước rơi xuống làm mồi cho cá thôi, đến lúc ấy tôi đây nhất định phải kéo cái thằng thất đức khốn kiếp nhà cậu xuống theo...”
Trong âm thanh âm vang của muôn ngàn cơn sóng, sáu người chúng tôi leo dần lên đỉnh cây thần mộc dưới đáy biển. Ai nấy lúc này cũng đã bị vật nặng đè lên làm cho lưng nhức vai mỏi, tuy rằng tay chân mềm nhũn cả ra, song đều không dám lơi tay dù chỉ một chút. Không khí trên mặt biển phả vào mặt, từ chỗ này chúng tôi đã có thể trông thấy rõ một vùng trời trắng xóa. Có điều, lúc ở bên dưới thoạt nhìn cảm thấy khoảng cách giữa cây gỗ Kiện Mộc và lối ra hình như rất gần, nhưng đến tận nơi mới phát hiện ra, không mọc thêm đôi cánh thì đừng hòng bay lên trên đó được. Minh Thúc loạng choạng nhổm người đứng trên đỉnh cây gỗ, nhón mũi chân, không cam lòng vươn tay với lên mép cửa hang. Nhưng từ chỗ lão đứng đến cửa hang vẫn còn quá xa, ít nhất cũng phải đến cả chục mét. Lão khọm già lập tức ỉu xìu, lòng nguội ngắt đi như tro tàn, suýt chút nữa thì tuột khỏi cây gỗ ngã ùm xuống nước.
Tôi thầm tự mắng mình quá sơ suất, lúc ra biển lại không mang theo mấy thứ dụng cụ trèo cao như súng bắn dây móc hay phi hổ trảo, thành ra chỉ còn cách có mấy bước, mà cả bọn chúng tôi chỉ biết trơ mắt ra nhìn chứ chẳng còn cách nào hơn. Đến lúc này, bọn tôi mới ngộ ra mình đúng là hạng người phàm mắt thịt, không phải Thường Nga uống thuốc bất tử thân thể nhẹ bẫng bay được lên cung trăng. Người sống ở đời, thân thể bằng máu thịt, bản chất vốn ô trọc nặng nề, dẫu là bậc chí thánh chí hiền như ông Khổng ông Mạnh, có tài học vô song hoặc thần dũng vô địch như Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, sức khỏe bằng ba bò chín trâu, cũng không thể nào thoát khỏi trọng lực địa cầu, tuyệt đối không thể bước đi trên không trung được. Phi thiên bôn nguyệt, những cảnh tượng kiểu như thế chỉ tồn tại trong truyền thuyết thần thoại mà thôi.
Tôi bám tay lên mũi tên ghim vào đầu trên của cây gỗ, nhiều năm bị nước biển xối vào vẫn chắc chắn như thường. Chỉ thấy, hải khí mờ mịt, người ở trên cao tựa như đang đạp chân lên mây mù, mấy chục mét dưới chân là một vùng nước hỗn độn đang sục sôi cuộn trào, không ngừng dâng cao. Mặt mũi cả bọn chúng tôi ướt đẫm mồ hôi hòa lẫn hơi nước, mắt thấy con đường “bôn nguyệt” trở thành tuyệt lộ, ai nấy đều thở dốc, chẳng biết phải làm sao.
Minh Thúc lại đưa ra chủ ý hão huyền, đợi đến khi nước dâng cao, thì nương theo dòng nước mà bơi ra bên ngoài. Cổ Thái và Đa Linh chỉ biết nhìn ngó quanh quất, bộ dạng cũng rất lúng túng. Tôi nghe trên đỉnh đầu vọng xuống tiếng gió rít như xé vải, thầm nhủ trời bên ngoài chắc vừa sáng, triều sớm chuẩn bị dâng, sợ rằng chẳng mấy chốc nữa u linh đảo sẽ bị nước biển nhấn chìm. Khi đó nước biển sẽ cuồn cuộn đổ vào qua “cửa sổ trời”, bọn tôi còn lấn bấn trong này chắc chắn sẽ bị dòng nước xiết xé xác. Xem tình hình này, có khi vẫn phải lặn xuống dưới kia tìm đường khác thôi vậy. Nghĩ tới đây, tôi bèn cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy trong làn nước ẩn hiện vô số bóng cá mập, lố nha lố nhố không đếm nổi, cảnh tượng thực khiến người ta phải rùng mình khiếp hãi. Trong tình trạng không có gì yểm hộ che chắn như thế mà nhảy xuống nước, đừng nói là không lặn được xuống đáy sâu, chỉ sợ vừa chạm vào mặt nước, chúng tôi đã bị bầy cá mập ấy lao vào xơi tái ngay tại trận rồi ấy chứ.
Đột nhiên Shirley Dương “a” lên một tiếng, trên thân cây gỗ này có rất nhiều mũi tên đá dài mấy mét, xòe ra như tán cây, kỳ thực chính là hóa thạch của một loài sinh vật biển cổ. Cây gỗ Kiện Mộc chìm dưới đáy biển đã vạn năm, giờ không thể nào phán đoán được các mũi tên là tác phẩm của thiên nhiên hay do con người cắm vào nữa. Có điều, ở chỗ lưa thưa ít mũi tên đá nhất, có một cánh cửa bằng đồng khắc hoa văn dạng vảy, rất giống hình dạng vảy gỗ màu đen trên khúc cây. Nếu không phải Shirley Dương tình cờ bám vào đúng chỗ thì không dễ gì mà phát hiện được cánh cửa đồng này.
Chúng tôi đều không ngờ gần ngọn cây gỗ lại có một cánh cửa đồng to tướng thế này. Lấy tay gạt đám rong rêu bám bên ngoài đi, trên cánh cửa lờ mờ hiện ra hình khắc cây gỗ thần đâm xuyên từ đáy biển lên cung trăng. Những totem Tống tử điểu bay lượn trên không trung có thể gặp được trong các mộ cổ thời kỳ Ân Thương và Tây Chu kia lại càng chứng tỏ rằng đây là mộ đạo của một ngôi mộ cổ. Chúng tôi lập tức nghĩ đến giả thiết, cây gỗ khổng lồ này rỗng ruột, bên trong có một con đường, một con đường để vong linh người chết đi theo thần mộc lên cung trăng. Bên dưới thông đạo ấy chắc chắn là mộ cổ của người nước Hận Thiên. Điều này xem ra có vẻ rất giống tục để lại “Thiên môn” trong địa cung để chủ mộ có thể phi thăng vũ hóa thành tiên trong phong tục mộ táng Trung Quốc, chỉ có điều “Thiên môn” để vong hồn lên cung trăng cầu thuốc bất tử ở đây nằm trong lòng thần mộc tương truyền có thể thông từ đáy biển lên tới mặt trăng này mà thôi.
Nước triều dưới vực xoáy San Hô đã dâng, màn hơi sương đang lờ mờ sáng tối sầm đi. Chúng tôi đều hiểu rõ, chỉ cần đảo u linh bị nhấn chìm, nước bên trên sẽ ào ào xối xuống, nước bên dưới kia cũng đồng thời dâng lên. Lũ cá mập đã ăn sạch sẽ con cá mui mắt vàng bị lựu đạn nổ chết, giờ mà xuống nước chẳng khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết. Đứng trước biển lớn đang nhe nanh múa vuốt, thân lâm vào tuyệt cảnh tiến thoái lưỡng nan, dẫu là ai cũng không thể giữ vững được tinh thần mà ra vẻ ta đầy hảo hán nữa, lũ chúng tôi mặt mũi xám xịt như tro, ôm chặt lấy những mũi tên đá trên ngọn cây gỗ khổng lồ, tâm trí hoảng loạn tột độ.
Đang lúc quẫn bách, tôi thấy cánh cửa đồng ấy hơi lún vào bên trong thân cây gỗ, có vẻ đóng rất chặt, cũng không biết có phải mộ cổ sớm đã bị ngập nước biển rồi hay không. Lúc này đã không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ có chui vào trong mộ cổ qua đường mộ đạo này, họa may mới thoát khỏi hiểm cảnh trên có dòng chảy xiết, dưới có bầy cá mập. Tôi chỉ tay vào cánh cửa đồng, gào lên với Shirley Dương: “Không lên được cung Quảng Hàn thì chúng ta đành xuống dưới mộ phần vậy.”
Shirley Dương gật đầu, rút dao găm ra nạy cánh cửa đồng đóng chặt. Tôi cũng lật tay rút thanh cổ kiếm mà người dân nước Hận Thiên cổ dùng để giết trai cướp ngọc. Bấy giờ, tôi cũng chẳng để ý xem thanh kiếm đồng ấy quý giá nhường nào nữa, cứ thế ra sức mà chọc, nạy vào khe cửa. Không ngờ, lưỡi kiếm sắc bén dẻo dai, vận sức mấy lần, cắt đứt luôn được sợi xích buộc cửa.
Nước triều vẫn chưa ngập hết đảo u linh, nhưng sóng biển dập dờn, ngọn sóng vỗ cao quá chóp đảo, khiến nước từ trên cao bắt đầu đổ xuống đỉnh đầu chúng tôi. Tình thế đã quá bức bách, Minh Thúc và Cổ Thái ở bên cạnh nhìn sang, ruột gan xem chừng cũng nóng như lửa đốt, bèn tiến lại giúp sức nạy cánh cửa. Cánh cửa đồng nặng nề nghìn năm nay đóng im ỉm, thế mà lúc mở ra, lại không hề có mùi ẩm mốc, mà chỉ thấy tanh tưởi xộc lên tận óc, khiến người ta chỉ muốn nôn ọe. Bên trong cánh cửa lộ ra một thông đạo rộng rãi tối đen như mực, sâu không thấy đáy, tựa như thông thẳng đến cõi u minh.
Shirley Dương quẹt một que diêm ném xuống, kiểm tra thấy không khí lưu thông, vô hại với con người, lập tức nói với cả bọn: “Bên trong không có nước, không khí cũng an toàn, xuống được!”
Trong lúc nói chuyện, nước triều đã lên đến đỉnh, thời gian không cho chúng tôi nghĩ ngợi gì nhiều nữa. Tôi vội lần lượt đẩy từng người bên cạnh vào thông đạo, sau đó nhanh chóng chui vào theo, tiện tay đóng cánh cửa đồng lại. Trong bóng tối, tôi chỉ thấy cả không gian ngập chìm trong tiếng động như sấm nổ, dòng nước xiết đổ sầm sập xuống thân cây gỗ khổng lồ, người ở bên trong lại càng đinh tai nhức óc hơn gấp bội phần, gân cốt toàn thân tưởng chừng như bị nghiền nát. Chỗ bị chúng tôi nạy ra trên cánh cửa đồng không ngừng có nước rỉ vào chảy tong tỏng.
Tôi vội há to miệng không dám ngậm, đề phòng tổn thương màng nhĩ. Trong thông đạo tối om như mực đã có người bật đèn pin lặn nước lên. Loại công cụ chiếu sáng này không hiệu quả lắm đối với môi trường không có nước, song có thể đeo trên người, rảnh hai tay để làm việc khác. Tôi cũng bật ngọn đèn treo trước ngực mình lên, chỉ thấy mộ đạo lớn khó tưởng tượng nổi này được làm từ thứ gỗ rắn chắc dị thường, tuy bên ngoài ngập nước, bên trong vẫn không hề ẩm ướt chút nào. Bọn chúng tôi ai cũng mang vác nặng, đi theo mộ đạo dốc nghiêng này lên thì dễ, xuống mới khó, chỉ còn cách dùng dao găm đâm vào vách gỗ, nghiến răng từ từ dịch chuyển xuống.
Cũng không biết đã nhích dần từng bước như thế được bao lâu, âm thanh nước triều đổ xuống va vào cây thần mộc cũng nhỏ dần, không rõ là nước trong Quy Khư đã dâng đầy hay là nước triều đã rút, song chúng tôi vẫn chưa đến được cuối mộ đạo. Càng xuống sâu, mùi tanh tưởi và hơi ẩm càng xộc mạnh, thêm một lúc lâu nữa, cuối cùng cũng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Chúng tôi đã xuống đến đáy thông đạo.
Shirley Dương ném một quả pháo lân tinh, ánh sáng bừng lên, chỉ thấy chúng tôi cách mặt nước chừng mười mét, một đầm nước phẳng lặng trải ra bên dưới, xung quanh không thấy chỗ nào để đặt chân. Tôi bảo cả bọn giật hai chốt bơm hơi bơm phồng ba lô rồi ném xuống trước, sau đó lần lượt thả mình xuống đầm. Vừa chạm nước, tất cả đều vội bơi lại chỗ ba lô, thở hổn hển.
Trong ánh sáng lân tinh nhợt nhạt, tôi ngẩng đầu quan sát xung quanh. Cây gỗ khổng lồ sừng sững như ngọn tháp đen kịt đứng chôn chân vào lòng một động san hô ngập nước hình thành từ thời thượng cổ, không biết sâu đến chừng nào. Cánh cửa đồng mở vào một thông đạo xuyên xuống tận mặt nước trong động san hô. Tôi còn thấy trong hang chất đống rất nhiều mai rùa to như cối xay, khắc chi chít các tiêu ký và dấu hiệu cổ xưa dùng để suy diễn quẻ trong Bát quái, nhưng ngâm nước biển quá lâu, hầu hết hình khắc đều đã mờ tịt, khó lòng nhìn ra. Trên rặng đá cách chỗ chúng tôi không xa lắm, đặt bộ xương của một sinh vật cổ trông giống cá voi khổng lồ, bên trong xương đầu thấp thoáng gồ lên mấy chục hình người, có lẽ đây là nơi đặt thi thể trong mộ cổ. Phỏng chừng, những xác cổ này miệng đều ngậm “trụ nhan châu”, dẫu ở đáy biển nghìn năm cũng không sợ bị thối rữa.
Theo bản năng, tôi đưa tay rờ túi đeo bên người, bây giờ mới sực nhớ ra mình không đem theo móng lừa đen. Có điều, tôi lại nhớ ra mình vẫn còn Tần Vương Chiếu Cốt kính, liền thấy yên tâm ngay tắp lự. Quan sát một lượt xong, tôi định xem lòng hồ này sâu bao nhiêu, liền nhận ra chỉ số trên mặt đồng hồ đo đã chỉ mức tối đa, không biết là đồng hồ hỏng hay hồ nước trong động san hô sâu tới nỗi không thể thăm dò.
Lúc mới xuống đây, Tuyền béo sợ đến mềm nhũn cả hai cẳng ra, nhưng vừa trông thấy trong ngôi mộ cổ kỳ quái này còn có cả người chết, cu cậu tức thì lấy lại tinh thần, hăm hở kéo cả bọn bơi lại gần xem cho rõ ràng. Tôi thấy đống xương hóa thạch vừa khéo cũng là chỗ thích hợp để mọi người nghỉ ngơi chỉnh đốn, bèn đưa tay vẫy vẫy, bảo cả nhóm bơi ra đó tạm thời tháo bỏ trang bị, ngồi nghỉ một chút cho lại sức.
Cả bọn nhọc nhằn leo lên rặng đá, thấy một ngọn đèn làm bằng xác giao nhân phơi khô bên trong đựng mỡ. Mỡ giao nhân dùng đốt đèn trải qua nghìn vạn năm cũng không khô, điểm cháy rất thấp, chỉ cần có chút không khí là đèn vẫn sáng, vừa khéo có thể thay thế đèn pin. Minh Thúc lập tức châm đèn, chiếu vào mấy cái xác chết trong xương con cá voi khổng lồ, miệng lầm bầm như thể đang tự nói với chính mình: “Tiên sư cha bố nó, không ngờ vùng Nam Hải này lại có mộ cổ của người Hận Thiên thật, cương thi đáy biển hàng xịn thế này, nhất định là được giá lắm đây... chậc chậc...”
Dưới ánh đèn, chúng tôi còn chưa nhìn rõ mấy cái xác mặt mũi mơ hồ kia, đã phát hiện ra trên cái mai rùa nằm phía trước bộ xương cá voi khổng lồ có tiêu ký “Chấn thượng chấn hạ”. Vì lúc ở trên biển đã thấy tiêu ký này ba bốn lần rồi, nên ngay cả Minh Thúc và Tuyền béo cũng nhận ra, đây là quẻ tượng Chấn kinh bách lý. Trong Quy Khư cứ xuất hiện đi xuất hiện lại quẻ tượng cổ này, rốt cuộc là có thâm ý chi đây?
Tôi đang mệt bã cả tinh thần lẫn thể xác, cứ nghĩ đến những quẻ số thâm ảo phức tạp trong Kinh Dịch là đầu đau như búa bổ, nhưng trong quẻ Chấn dường như có ẩn tình liên quan mật thiết đến Quy Khư. Tôi đang vắt óc nghĩ ngợi mà vẫn chưa tìm ra đầu mối gì, Shirley Dương chợt lên tiếng hỏi: “Tôi không hiểu Kinh Dịch cho lắm, nhưng từng đọc qua trước tác của một vị học giả người Hoa sống ở Mỹ, ông ấy là chuyên gia nổi tiếng về nghiên cứu Dịch học, quan điểm hết sức độc đáo. Vị học giả đó từng đề cập rằng, trong các quẻ tượng của Dịch, phàm là những câu có chữ số bên trong, chẳng phải không dưng mà có, mà đều chứa đựng thông tin đã được mã hóa của cổ nhân, người ngày nay đa phần đều không thể nào giải nổi. Quẻ Chấn này có câu ‘Chấn kinh bách lý’[55] anh có biết, tại sao trong quẻ không phải là chín mươi chín dặm hay một trăm linh một dặm hoặc là nghìn dặm vạn dặm luôn, mà lại đúng là một trăm dặm hay không?”
Tôi nghe Cổ Thái nói trông thấy vầng mặt trời màu trắng, căn bản chẳng hiểu thằng nhãi này đang nói bậy nói bạ cái gì nữa, còn tưởng cậu ta căng thẳng quả độ mà mê muội thần trí, dẫu sao thì áp lực tâm lý khủng khiếp do nỗi tuyệt vọng mang lại không phải là thứ một đứa trẻ mười sáu mười bảy tuổi như cậu ta có thể chịu đựng nổi.
Nhưng Minh Thúc thì giật bắn mình, ở trên biển trông thấy mặt trời màu trắng không phải là điềm tốt lành gì, những người hiểu cách xem hải tượng đều biết rõ “mặt trời trắng bệch, giờ bão ngập trời”, đó chính là dấu hiệu của đại nạn sắp sửa giáng xuống. Lão khọm già sém chút nữa là ngồi phịch xuống, cũng may tôi kịp đưa tay ra đỡ. Shirley Dương hỏi Cổ Thái: “Đừng cuống, cậu nói rõ ra xem nào.”
Cổ Thái vội chỉ tay nói: “Mọi người mau xem đi, mặt trời màu trắng...” Cả bọn đều không ngờ mặt trời mà cậu ta nói lại ở trên đỉnh đầu. Chúng tôi đang ở trong Quy Khư dưới đáy biển, sao có thể trông thấy mặt trời trên không trung được cơ chứ? Tất cả liền lập tức hướng ánh mắt lên phía trên, chẳng ngờ lại có một vật thể hình tròn màu trắng mờ mờ treo lơ lửng ở ngay chỗ đỉnh cây gỗ Kiện Mộc găm chi chít tên đá.
Vừa nãy hải khí bùng lên, long hỏa ở tầng nham thạch phía trên bùng lên, trút xuống một trận mưa lửa, không trung mù mịt hơi sương bốc lên từ mặt nước bị long hỏa hun đốt, thành ra bọn tôi không ai chú ý đến tình hình phía trên cả. Tôi lạnh toát người, không hiểu sự thể rốt cuộc ra sao, ngạc nhiên thốt lên: “Cái gì thế?” Sự việc xảy ra quá bất ngờ, nhất thời cả bọn không ai kịp định thần, chỉ hoang mang ngước nhìn, song cũng vẫn biết, thứ ở trên kia tuyệt đối không phải mặt trời.
Shirley Dương chăm chú nhìn mảng màu đen gồ hẳn lên so với xung quanh ở tầng nham thạch trên đỉnh đầu, tựa như sực nhớ ra thứ gì đó, mừng rỡ reo lên: “Đảo u linh!” Thì ra, quầng sáng trắng nhờ nhờ ấy, không phải là mặt trời như Cổ Thái nói, mà là một “cửa sổ trời” bị hải khí trong Quy Khư che khuất. Kể ra cũng hợp với lẽ thường, nơi này trên có cửa trời, dưới có dòng chảy ngầm, như vậy mới bảo đảm sinh khí trăm nghìn năm không suy giảm. Lúc chúng tôi mới tiến vào vùng biển vực xoáy San Hô, gặp đúng lúc nước triều rút, một hòn đảo màu đen lộ ra trên mặt biển, đó chính là đảo u linh thoắt ẩn thoắt hiện theo quy luật thủy triều.
Lúc nước triều dâng, hòn đảo chìm xuống, khi thủy triều rút, nó sẽ lại ló ra trên mặt biển. Mới đầu, chúng tôi còn tưởng đảo u linh là lưng con cá voi khổng lồ, chỉ sợ nó quẫy sóng làm lật tàu, sau khi nổ pháo oanh kích mới chắc chắn đó là một hòn đảo nhỏ trơ trọi trên biển. Đảo u linh chia vực xoáy San Hô thành hai khu vực Đông và Tây, chúng tôi bị con rắn biển khổng lồ tấn công, chìm vào hải nhãn ở mé phía Đông, không ngờ di tích cổ của nước Hận Thiên trong Quy Khư lại được xây ở ngay bên dưới đảo u linh như thế.
Chúng tôi càng không thể ngờ được trên đảo u linh lại có một hang động giống như cửa sổ trời, thông thẳng lên mặt biển, chắc hẳn bên ngoài đã sáng, lộ ra một mảnh trời to như cái khay, nên Cổ Thái mới tưởng lầm là trông thấy mặt trời màu trắng trước cơn bão lớn. Tôi đoán hang động như cái miệng giếng này không phải bị súng pháo trên tàu Chĩa Ba của chúng tôi bắn sập. Cây gỗ Kiện Mộc này tựa như một cây đại thụ, tên đá ghim vào xòe ra thành tán cây, trông hình thế cơ hồ muốn phá trời bay vút lên. Thì ra, bố cục totem Xạ nhật này hết sức nghiêm mật, mọi điểm đều có ý tứ sâu xa, đến giờ tôi mới cảm nhận được người dân nước Hận Thiên xưa đã tốn bao công sức để tạo ra khung cảnh như trong truyện thần thoại này. Quy Khư tuyệt đối không đơn giản chỉ là bày ra như vậy, bên trong ắt hẳn còn ẩn chứa bí mật gì đó lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, tôi thực tình cũng không đoán nổi tại sao cổ nhân lại sắp xếp như vậy.
Tuyền béo hỏi cả bọn: “Các vị, chúng ta đừng có thở vắn than dài ở đây nữa, không thấy nước đang dâng lên đấy à? Chúng ta nên bám theo cây gỗ Định hải thần châm này bò lên trên, hay là lặn xuống đáy nước tìm đường ra khác đây? Việc không thể chần chừ nữa, đi như thế nào, cần phải nhanh chóng quyết định ngay đi thôi.”
Tôi thấy cửa sổ trời trên đảo u linh thông thẳng lên sinh môn trên mặt biển, lại nghe bốn phía ầm ầm, chính là tín hiệu nước triều sắp dâng cao. Mặc dù sau khi thủy triều dâng, đảo u linh cũng bị ngập chìm dưới nước, có điều, lúc này cũng chỉ biết tranh thủ thời gian bám vào cây gỗ Kiện Mộc này mà rời khỏi Quy Khư, những chuyện khác thì đợi khi trở lên mặt biển rồi tính toán sau cũng không vội.
Tôi nghĩ tới đó, đang chuẩn bị quyết định thì Shirley Dương chợt ngăn lại: “Mới đầu tôi đã có cảm giác sử dụng Kiện Mộc tạo thành mũi tên khổng lồ thế này hình như không phù hợp với truyền thuyết cổ xưa của nền văn minh Hoa Hạ cho lắm. Người dân nước Hận Thiên tuy tự coi mình là hậu duệ của totem Xạ nhật, nhưng Kiện Mộc lại chính là thượng cổ thần mộc, có thể thông thẳng từ đáy biển đến Nguyệt cung. Đồng thời, hang động như cửa sổ trời kia lại đặt ở Nguyệt vị, nhất định là tượng trưng cho mặt trăng chứ chẳng sai. Ghi chép về nước Hận Thiên trong thư tịch cổ rất ít, có điều đỉnh đồng thời Chu Mục Vương có đúc hình ảnh truyền thuyết người dân nước Hận Thiên sau khi chết liền chạy lên mặt trăng. Bởi vậy, tôi thấy đây có lẽ không phải totem Xạ nhật, mà là đường lên mặt trăng, cho vong linh người chết sử dụng. Chúng ta leo lên theo lối này, liệu có nguy hiểm không?”
Quả tim của cả bọn đều chùng xuống, thì ra cây gỗ Kiện Mộc này không phải totem chiến tranh Xạ nhật, mà là tượng trưng cho con đường u minh dẫn linh hồn người chết lên mặt trăng, xét đến tận cùng, ngọn núi này quả nhiên là một ngôi mộ cổ nằm ngoài lẽ xét đoán thông thường. Quầng sáng trắng lóa trên đỉnh cây gỗ Kiện Mộc quả thực tựa như một vầng trăng tròn vành vạnh, khiến cho người ta có cảm giác cây thần mộc đáy biển để linh hồn được thăng hoa này tựa như chỉ cách vầng trăng kia một bước, chỉ cần leo lên đỉnh Kiện Mộc, tung người nhảy lên là có thể rời khỏi vùng Quy Khư hỗn loạn không có lối ra này rồi.
Minh Thúc thấy mặt nước xung quanh thấp thoáng bóng cá mập, tự biết nếu lặn xuống ắt khó tránh khỏi phải huyết chiến với lũ cá dữ ấy. Lão là người qua lại trên biển nhiều năm, dĩ nhiên hiểu rõ sự lợi hại của đàn cá mập, trong lòng đương nhiên muốn lên hơn muốn xuống, cuống quýt lên tiếng: “Tiểu thư Shirley Dương nói rất có lý, trên biển đích thực có truyền thuyết xa xưa về cây gỗ thần thông lên mặt trăng, có điều dù là thần mộc để oan hồn người chết nơi đáy biển lên cung trăng, thì trước mắt chúng ta cũng chỉ còn cách đặt mình vào chỗ chết để tìm nẻo sống mà thôi...” Nói đoạn, lão xông lên dẫn đầu cả bọn bám cây gỗ nghiêng nghiêng vỏ xù xì như vảy rồng, chầm chậm leo lên cửa sổ trời phía trên, miệng không ngừng lẩm bẩm khúc hát thê lương bi tráng của dân mò ngọc cho vững dạ, giọng điệu như sói tru quỷ gào: “Hải thần của con ơi, xin hãy cứu vớt lấy kẻ cô khổ này, không sợ sóng sâu nước cả, chỉ sợ không thể về nhà...”
Minh Thúc đã tranh leo lên cây thần mộc trông tựa như có thể thông tới tận cung trăng ấy trước, hơn sáu chục tuổi đầu rồi, bảo leo là leo luôn không chút chần chừ do dự, tay chân hết sức nhanh nhẹn. Tôi thấy vậy, trong lòng không khỏi chửi thầm cái lão già này đúng là hạng cá nhân chủ nghĩa chỉ biết nghĩ đến mình, chẳng lo gì cho tập thể. Nhưng hành động của lão đồng thời cũng đập tan mọi sự lo âu của chúng tôi, thôi thì được ăn cả ngã về không, đánh liều một phen vậy. Đã đến nước này, cũng chỉ còn cách cả đội bò lên cửa hang kia tìm đường thoát khỏi Quy Khư, nhưng bình ô xy và mặt nạ thì vẫn không thể vứt bỏ, để vạn nhất lối trên ấy không đi được thì vẫn còn có thể nhảy xuống nước tìm đường khác. Vậy là cả bọn cùng nghiến răng đành vác nặng, gắng sức leo lên.
Tuyền béo leo lên thứ hai, đeo bình lặn và một cái bao to tướng đựng những món vớt được, tuy hết sức nặng nề, nhưng cu cậu không nỡ vứt bỏ thứ gì. Mang vác nặng đối với cậu ta mà nói không phải là vấn đề, nhưng leo cao xưa nay vốn là nhược điểm lớn nhất của Tuyền béo. Có điều, chuyện đã đến nước này rồi, thì cậu ta cũng chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ, nhắm tịt mắt lại, chỉ nghe “bạch bạch bạch” mấy tiếng, tấm thân phì nộn đã lên được mấy mét.
Bọn chúng tôi xếp hàng một bám theo cây gỗ khổng lồ quấn nhằng nhịt xích đồng, cũng không biết khúc cây đã trải qua nghìn vạn năm này có chống chọi nổi sóng gió hay không nữa. Cúi người nhìn xuống dưới, nước biển cuồn cuộn sục sôi, nhấp nhô vô số bóng dáng tượng nô lệ bằng đồng thau, ngoài ra còn có rất nhiều cá mập lượn lờ rình rập trong làn nước đã dìm ngập quá nửa di tích thành cổ. Tôi lo Tuyền béo căng thẳng quá sẽ tuột tay ngã, bèn kêu lên với cậu ta: “Tư lệnh Vương Khải Tuyền, mau mở mắt ra xem, chúng ta sắp bò lên đến mặt trăng rồi, bà quả phụ trên cung trăng và thuốc trường sinh bất tử của bà ta đang đợi cậu đến nhận đấy.”
Tuyền béo cảm nhận được thế nước cuồn cuộn phía dưới, lại thấy gió lạnh từ trên cao quạt vù vù bên tai, nào dám mở mắt, nhưng mồm miệng thì vẫn bi bô chẳng chịu kém cạnh gì ai: “Hồ Bát Nhất, giờ là lúc nào rồi, sao cậu lại giở cái trò thất đức ấy ra hử? Cậu không biết tư lệnh Vương Khải Tuyền này vốn có cái thú lên chỗ cao là thích nhắm mắt lại trầm tư hay sao? Lòng ta sáng như gương, mở mắt ra chẳng những không thấy nàng quả phụ xinh đẹp mà chỉ có nước rơi xuống làm mồi cho cá thôi, đến lúc ấy tôi đây nhất định phải kéo cái thằng thất đức khốn kiếp nhà cậu xuống theo...”
Trong âm thanh âm vang của muôn ngàn cơn sóng, sáu người chúng tôi leo dần lên đỉnh cây thần mộc dưới đáy biển. Ai nấy lúc này cũng đã bị vật nặng đè lên làm cho lưng nhức vai mỏi, tuy rằng tay chân mềm nhũn cả ra, song đều không dám lơi tay dù chỉ một chút. Không khí trên mặt biển phả vào mặt, từ chỗ này chúng tôi đã có thể trông thấy rõ một vùng trời trắng xóa. Có điều, lúc ở bên dưới thoạt nhìn cảm thấy khoảng cách giữa cây gỗ Kiện Mộc và lối ra hình như rất gần, nhưng đến tận nơi mới phát hiện ra, không mọc thêm đôi cánh thì đừng hòng bay lên trên đó được. Minh Thúc loạng choạng nhổm người đứng trên đỉnh cây gỗ, nhón mũi chân, không cam lòng vươn tay với lên mép cửa hang. Nhưng từ chỗ lão đứng đến cửa hang vẫn còn quá xa, ít nhất cũng phải đến cả chục mét. Lão khọm già lập tức ỉu xìu, lòng nguội ngắt đi như tro tàn, suýt chút nữa thì tuột khỏi cây gỗ ngã ùm xuống nước.
Tôi thầm tự mắng mình quá sơ suất, lúc ra biển lại không mang theo mấy thứ dụng cụ trèo cao như súng bắn dây móc hay phi hổ trảo, thành ra chỉ còn cách có mấy bước, mà cả bọn chúng tôi chỉ biết trơ mắt ra nhìn chứ chẳng còn cách nào hơn. Đến lúc này, bọn tôi mới ngộ ra mình đúng là hạng người phàm mắt thịt, không phải Thường Nga uống thuốc bất tử thân thể nhẹ bẫng bay được lên cung trăng. Người sống ở đời, thân thể bằng máu thịt, bản chất vốn ô trọc nặng nề, dẫu là bậc chí thánh chí hiền như ông Khổng ông Mạnh, có tài học vô song hoặc thần dũng vô địch như Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, sức khỏe bằng ba bò chín trâu, cũng không thể nào thoát khỏi trọng lực địa cầu, tuyệt đối không thể bước đi trên không trung được. Phi thiên bôn nguyệt, những cảnh tượng kiểu như thế chỉ tồn tại trong truyền thuyết thần thoại mà thôi.
Tôi bám tay lên mũi tên ghim vào đầu trên của cây gỗ, nhiều năm bị nước biển xối vào vẫn chắc chắn như thường. Chỉ thấy, hải khí mờ mịt, người ở trên cao tựa như đang đạp chân lên mây mù, mấy chục mét dưới chân là một vùng nước hỗn độn đang sục sôi cuộn trào, không ngừng dâng cao. Mặt mũi cả bọn chúng tôi ướt đẫm mồ hôi hòa lẫn hơi nước, mắt thấy con đường “bôn nguyệt” trở thành tuyệt lộ, ai nấy đều thở dốc, chẳng biết phải làm sao.
Minh Thúc lại đưa ra chủ ý hão huyền, đợi đến khi nước dâng cao, thì nương theo dòng nước mà bơi ra bên ngoài. Cổ Thái và Đa Linh chỉ biết nhìn ngó quanh quất, bộ dạng cũng rất lúng túng. Tôi nghe trên đỉnh đầu vọng xuống tiếng gió rít như xé vải, thầm nhủ trời bên ngoài chắc vừa sáng, triều sớm chuẩn bị dâng, sợ rằng chẳng mấy chốc nữa u linh đảo sẽ bị nước biển nhấn chìm. Khi đó nước biển sẽ cuồn cuộn đổ vào qua “cửa sổ trời”, bọn tôi còn lấn bấn trong này chắc chắn sẽ bị dòng nước xiết xé xác. Xem tình hình này, có khi vẫn phải lặn xuống dưới kia tìm đường khác thôi vậy. Nghĩ tới đây, tôi bèn cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy trong làn nước ẩn hiện vô số bóng cá mập, lố nha lố nhố không đếm nổi, cảnh tượng thực khiến người ta phải rùng mình khiếp hãi. Trong tình trạng không có gì yểm hộ che chắn như thế mà nhảy xuống nước, đừng nói là không lặn được xuống đáy sâu, chỉ sợ vừa chạm vào mặt nước, chúng tôi đã bị bầy cá mập ấy lao vào xơi tái ngay tại trận rồi ấy chứ.
Đột nhiên Shirley Dương “a” lên một tiếng, trên thân cây gỗ này có rất nhiều mũi tên đá dài mấy mét, xòe ra như tán cây, kỳ thực chính là hóa thạch của một loài sinh vật biển cổ. Cây gỗ Kiện Mộc chìm dưới đáy biển đã vạn năm, giờ không thể nào phán đoán được các mũi tên là tác phẩm của thiên nhiên hay do con người cắm vào nữa. Có điều, ở chỗ lưa thưa ít mũi tên đá nhất, có một cánh cửa bằng đồng khắc hoa văn dạng vảy, rất giống hình dạng vảy gỗ màu đen trên khúc cây. Nếu không phải Shirley Dương tình cờ bám vào đúng chỗ thì không dễ gì mà phát hiện được cánh cửa đồng này.
Chúng tôi đều không ngờ gần ngọn cây gỗ lại có một cánh cửa đồng to tướng thế này. Lấy tay gạt đám rong rêu bám bên ngoài đi, trên cánh cửa lờ mờ hiện ra hình khắc cây gỗ thần đâm xuyên từ đáy biển lên cung trăng. Những totem Tống tử điểu bay lượn trên không trung có thể gặp được trong các mộ cổ thời kỳ Ân Thương và Tây Chu kia lại càng chứng tỏ rằng đây là mộ đạo của một ngôi mộ cổ. Chúng tôi lập tức nghĩ đến giả thiết, cây gỗ khổng lồ này rỗng ruột, bên trong có một con đường, một con đường để vong linh người chết đi theo thần mộc lên cung trăng. Bên dưới thông đạo ấy chắc chắn là mộ cổ của người nước Hận Thiên. Điều này xem ra có vẻ rất giống tục để lại “Thiên môn” trong địa cung để chủ mộ có thể phi thăng vũ hóa thành tiên trong phong tục mộ táng Trung Quốc, chỉ có điều “Thiên môn” để vong hồn lên cung trăng cầu thuốc bất tử ở đây nằm trong lòng thần mộc tương truyền có thể thông từ đáy biển lên tới mặt trăng này mà thôi.
Nước triều dưới vực xoáy San Hô đã dâng, màn hơi sương đang lờ mờ sáng tối sầm đi. Chúng tôi đều hiểu rõ, chỉ cần đảo u linh bị nhấn chìm, nước bên trên sẽ ào ào xối xuống, nước bên dưới kia cũng đồng thời dâng lên. Lũ cá mập đã ăn sạch sẽ con cá mui mắt vàng bị lựu đạn nổ chết, giờ mà xuống nước chẳng khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết. Đứng trước biển lớn đang nhe nanh múa vuốt, thân lâm vào tuyệt cảnh tiến thoái lưỡng nan, dẫu là ai cũng không thể giữ vững được tinh thần mà ra vẻ ta đầy hảo hán nữa, lũ chúng tôi mặt mũi xám xịt như tro, ôm chặt lấy những mũi tên đá trên ngọn cây gỗ khổng lồ, tâm trí hoảng loạn tột độ.
Đang lúc quẫn bách, tôi thấy cánh cửa đồng ấy hơi lún vào bên trong thân cây gỗ, có vẻ đóng rất chặt, cũng không biết có phải mộ cổ sớm đã bị ngập nước biển rồi hay không. Lúc này đã không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ có chui vào trong mộ cổ qua đường mộ đạo này, họa may mới thoát khỏi hiểm cảnh trên có dòng chảy xiết, dưới có bầy cá mập. Tôi chỉ tay vào cánh cửa đồng, gào lên với Shirley Dương: “Không lên được cung Quảng Hàn thì chúng ta đành xuống dưới mộ phần vậy.”
Shirley Dương gật đầu, rút dao găm ra nạy cánh cửa đồng đóng chặt. Tôi cũng lật tay rút thanh cổ kiếm mà người dân nước Hận Thiên cổ dùng để giết trai cướp ngọc. Bấy giờ, tôi cũng chẳng để ý xem thanh kiếm đồng ấy quý giá nhường nào nữa, cứ thế ra sức mà chọc, nạy vào khe cửa. Không ngờ, lưỡi kiếm sắc bén dẻo dai, vận sức mấy lần, cắt đứt luôn được sợi xích buộc cửa.
Nước triều vẫn chưa ngập hết đảo u linh, nhưng sóng biển dập dờn, ngọn sóng vỗ cao quá chóp đảo, khiến nước từ trên cao bắt đầu đổ xuống đỉnh đầu chúng tôi. Tình thế đã quá bức bách, Minh Thúc và Cổ Thái ở bên cạnh nhìn sang, ruột gan xem chừng cũng nóng như lửa đốt, bèn tiến lại giúp sức nạy cánh cửa. Cánh cửa đồng nặng nề nghìn năm nay đóng im ỉm, thế mà lúc mở ra, lại không hề có mùi ẩm mốc, mà chỉ thấy tanh tưởi xộc lên tận óc, khiến người ta chỉ muốn nôn ọe. Bên trong cánh cửa lộ ra một thông đạo rộng rãi tối đen như mực, sâu không thấy đáy, tựa như thông thẳng đến cõi u minh.
Shirley Dương quẹt một que diêm ném xuống, kiểm tra thấy không khí lưu thông, vô hại với con người, lập tức nói với cả bọn: “Bên trong không có nước, không khí cũng an toàn, xuống được!”
Trong lúc nói chuyện, nước triều đã lên đến đỉnh, thời gian không cho chúng tôi nghĩ ngợi gì nhiều nữa. Tôi vội lần lượt đẩy từng người bên cạnh vào thông đạo, sau đó nhanh chóng chui vào theo, tiện tay đóng cánh cửa đồng lại. Trong bóng tối, tôi chỉ thấy cả không gian ngập chìm trong tiếng động như sấm nổ, dòng nước xiết đổ sầm sập xuống thân cây gỗ khổng lồ, người ở bên trong lại càng đinh tai nhức óc hơn gấp bội phần, gân cốt toàn thân tưởng chừng như bị nghiền nát. Chỗ bị chúng tôi nạy ra trên cánh cửa đồng không ngừng có nước rỉ vào chảy tong tỏng.
Tôi vội há to miệng không dám ngậm, đề phòng tổn thương màng nhĩ. Trong thông đạo tối om như mực đã có người bật đèn pin lặn nước lên. Loại công cụ chiếu sáng này không hiệu quả lắm đối với môi trường không có nước, song có thể đeo trên người, rảnh hai tay để làm việc khác. Tôi cũng bật ngọn đèn treo trước ngực mình lên, chỉ thấy mộ đạo lớn khó tưởng tượng nổi này được làm từ thứ gỗ rắn chắc dị thường, tuy bên ngoài ngập nước, bên trong vẫn không hề ẩm ướt chút nào. Bọn chúng tôi ai cũng mang vác nặng, đi theo mộ đạo dốc nghiêng này lên thì dễ, xuống mới khó, chỉ còn cách dùng dao găm đâm vào vách gỗ, nghiến răng từ từ dịch chuyển xuống.
Cũng không biết đã nhích dần từng bước như thế được bao lâu, âm thanh nước triều đổ xuống va vào cây thần mộc cũng nhỏ dần, không rõ là nước trong Quy Khư đã dâng đầy hay là nước triều đã rút, song chúng tôi vẫn chưa đến được cuối mộ đạo. Càng xuống sâu, mùi tanh tưởi và hơi ẩm càng xộc mạnh, thêm một lúc lâu nữa, cuối cùng cũng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Chúng tôi đã xuống đến đáy thông đạo.
Shirley Dương ném một quả pháo lân tinh, ánh sáng bừng lên, chỉ thấy chúng tôi cách mặt nước chừng mười mét, một đầm nước phẳng lặng trải ra bên dưới, xung quanh không thấy chỗ nào để đặt chân. Tôi bảo cả bọn giật hai chốt bơm hơi bơm phồng ba lô rồi ném xuống trước, sau đó lần lượt thả mình xuống đầm. Vừa chạm nước, tất cả đều vội bơi lại chỗ ba lô, thở hổn hển.
Trong ánh sáng lân tinh nhợt nhạt, tôi ngẩng đầu quan sát xung quanh. Cây gỗ khổng lồ sừng sững như ngọn tháp đen kịt đứng chôn chân vào lòng một động san hô ngập nước hình thành từ thời thượng cổ, không biết sâu đến chừng nào. Cánh cửa đồng mở vào một thông đạo xuyên xuống tận mặt nước trong động san hô. Tôi còn thấy trong hang chất đống rất nhiều mai rùa to như cối xay, khắc chi chít các tiêu ký và dấu hiệu cổ xưa dùng để suy diễn quẻ trong Bát quái, nhưng ngâm nước biển quá lâu, hầu hết hình khắc đều đã mờ tịt, khó lòng nhìn ra. Trên rặng đá cách chỗ chúng tôi không xa lắm, đặt bộ xương của một sinh vật cổ trông giống cá voi khổng lồ, bên trong xương đầu thấp thoáng gồ lên mấy chục hình người, có lẽ đây là nơi đặt thi thể trong mộ cổ. Phỏng chừng, những xác cổ này miệng đều ngậm “trụ nhan châu”, dẫu ở đáy biển nghìn năm cũng không sợ bị thối rữa.
Theo bản năng, tôi đưa tay rờ túi đeo bên người, bây giờ mới sực nhớ ra mình không đem theo móng lừa đen. Có điều, tôi lại nhớ ra mình vẫn còn Tần Vương Chiếu Cốt kính, liền thấy yên tâm ngay tắp lự. Quan sát một lượt xong, tôi định xem lòng hồ này sâu bao nhiêu, liền nhận ra chỉ số trên mặt đồng hồ đo đã chỉ mức tối đa, không biết là đồng hồ hỏng hay hồ nước trong động san hô sâu tới nỗi không thể thăm dò.
Lúc mới xuống đây, Tuyền béo sợ đến mềm nhũn cả hai cẳng ra, nhưng vừa trông thấy trong ngôi mộ cổ kỳ quái này còn có cả người chết, cu cậu tức thì lấy lại tinh thần, hăm hở kéo cả bọn bơi lại gần xem cho rõ ràng. Tôi thấy đống xương hóa thạch vừa khéo cũng là chỗ thích hợp để mọi người nghỉ ngơi chỉnh đốn, bèn đưa tay vẫy vẫy, bảo cả nhóm bơi ra đó tạm thời tháo bỏ trang bị, ngồi nghỉ một chút cho lại sức.
Cả bọn nhọc nhằn leo lên rặng đá, thấy một ngọn đèn làm bằng xác giao nhân phơi khô bên trong đựng mỡ. Mỡ giao nhân dùng đốt đèn trải qua nghìn vạn năm cũng không khô, điểm cháy rất thấp, chỉ cần có chút không khí là đèn vẫn sáng, vừa khéo có thể thay thế đèn pin. Minh Thúc lập tức châm đèn, chiếu vào mấy cái xác chết trong xương con cá voi khổng lồ, miệng lầm bầm như thể đang tự nói với chính mình: “Tiên sư cha bố nó, không ngờ vùng Nam Hải này lại có mộ cổ của người Hận Thiên thật, cương thi đáy biển hàng xịn thế này, nhất định là được giá lắm đây... chậc chậc...”
Dưới ánh đèn, chúng tôi còn chưa nhìn rõ mấy cái xác mặt mũi mơ hồ kia, đã phát hiện ra trên cái mai rùa nằm phía trước bộ xương cá voi khổng lồ có tiêu ký “Chấn thượng chấn hạ”. Vì lúc ở trên biển đã thấy tiêu ký này ba bốn lần rồi, nên ngay cả Minh Thúc và Tuyền béo cũng nhận ra, đây là quẻ tượng Chấn kinh bách lý. Trong Quy Khư cứ xuất hiện đi xuất hiện lại quẻ tượng cổ này, rốt cuộc là có thâm ý chi đây?
Tôi đang mệt bã cả tinh thần lẫn thể xác, cứ nghĩ đến những quẻ số thâm ảo phức tạp trong Kinh Dịch là đầu đau như búa bổ, nhưng trong quẻ Chấn dường như có ẩn tình liên quan mật thiết đến Quy Khư. Tôi đang vắt óc nghĩ ngợi mà vẫn chưa tìm ra đầu mối gì, Shirley Dương chợt lên tiếng hỏi: “Tôi không hiểu Kinh Dịch cho lắm, nhưng từng đọc qua trước tác của một vị học giả người Hoa sống ở Mỹ, ông ấy là chuyên gia nổi tiếng về nghiên cứu Dịch học, quan điểm hết sức độc đáo. Vị học giả đó từng đề cập rằng, trong các quẻ tượng của Dịch, phàm là những câu có chữ số bên trong, chẳng phải không dưng mà có, mà đều chứa đựng thông tin đã được mã hóa của cổ nhân, người ngày nay đa phần đều không thể nào giải nổi. Quẻ Chấn này có câu ‘Chấn kinh bách lý’[55] anh có biết, tại sao trong quẻ không phải là chín mươi chín dặm hay một trăm linh một dặm hoặc là nghìn dặm vạn dặm luôn, mà lại đúng là một trăm dặm hay không?”