Dương Thu Trì ngẩn người, lòng nghĩ lão già này quả là lợi hại, không ngờ nghe ra ở ngoài có người, lại còn biết người đó là ai. Hắn đẩy cửa tiến vào, ôm quyền nói: "Xin lỗi, thổ ti lão gia, Dương mỗ ngủ một giấc tỉnh dậy thấy hơi nóng nực, tùy tiện đi một chút, thấy phòng của ngài còn đèn, liền định tới tìm ông nói chuyện chơi."
Dát Cát Ước mỉm cười bảo Dương Thu Trì ngồi xuống trước, sau đó hai tay chấp lại cúi đầu niệm kinh, một lúc sau mới mở mắt ra hỏi: "Dương đại nhân có gì chỉ dạy, cứ nói đi không sao."
Dương Thu Trì nhất thời không bíêt mở lời thế nào, nhìn lên hương án có bày mấy cái đầu lâu đó, tùy tiện hỏi: "Thổ ti lão gia đang tụng kinh à?"
Dát Cát Ước khẽ thở dài: "Ai...! Đúng vậy, là tụng kinh cho nương tử của ta."
Dương Thu Trì hơi kinh ngạc, thầm nghĩ thường người ta chỉ gọi nguyên phối là nương tử, và thường chỉ có một, chẳng lẽ Đồng gia có thể đồng thời cưới nhiều nguyên phối phu nhân, là vợ cùng bình đẳng hết hay sao?
Dát Cát Ước tựa hồ nhìn ra vẻ kinh ngạc của Dương Thu Trì, trong mắt lộ ra vẻ bi thương vô hạn, trầm giọng nói: "Trong số khô lâu đầu ở đây chí có một người là nương tử của ta, nhưng ta không biệt được rốt cuộc là cái đầu lâu nào trong số đó."
Dương Thu Trì càng kinh ngạc hơn, biết khẳng định là một chuyện cũ rất thương tâm, do đó không chủ hỏi.
Dát Cát Ước từ từ nói tiếp: "Mười năm trước, lúc A Ny mới năm sáu tuổi, miêu quân Ma Dương khởi sự, đánh quan binh đại bại, đánh vào huyện thành Ma Dương. Triều đình đang lo đối phó quân đội của Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung, không thể tăng binh, chỉ phái ta lĩnh Đồng quân đi bình lọan, hứa là sau khi bình định sẽ đem vùng Ma Dương cho ta quản. Và thế là ta khẩn cấp chinh điều một vạn Đồng quân kéo đến chinh tiễu, dưới sự phối hợp của quan binh, ta đả đánh bại Miêu quân ở Ma Dương, Trấn Cao, thu phục Ma Dương thành. Không ngờ Miêu quân nhân lúc hậu phương của ta trống rỗng, đã đánh lén vào trang viên Đồng trại của ta, giết không ít dân chúng của ta. Ta nghe tin mang binh khẩn cấp quay về cứu viện, tiêu diệt hết Miêu quân đánh lén, nhưng nam đinh trong trang viên của ta đã bị giết sạch, nữ tử... thì bị lột sạch quần áo dày vò rồi giết chết hết. Rất may là A Hạnh Ny lúc đó theo ta xuất chinh, nên mới hạnh miễn. Mẹ nó chết trong trường nạn tai này. Do đang là mùa hè nóng bức, khi đại quân của ta trở về thì thi thể toàn trại đã thối rữa hết. Do nữ tử bị lột sạch quần áo bị lăng nhục rồi sát hại, nên căn bản không nhận ra ai là ai, không cách gì xác nhận xương cốt của nương tử ta. Ta đau đớn đã huyết tẩy Miêu trại Ma Dương, nhưng không thể lấy lại được mẹ của A Ny...."
Lòng Dương Thu Trì ảm đạm. Chiêu lấy người man trị người man này của triều đình quá lợi hại. Như thế này thì người Miêu và người Đồng trở thành cừu, tàn sát lẫn nhau, thế lực đại giảm, tự nhiên không còn lực tạo phản làm loạn nữa.
Dát Cát Ước thở dài: "Ai, đáng thương cho mẹ của A Ny, sau khi chết rồi ta không thể nào phân biện được xương cốt của nàng ấy, chỉ đành đem thây cốt giống giống gom lại hết, đặt trên hương án cùng cung phụng, chỉ hi vọng trong này có xương cốt của nàng ấy, hưởng được chút nhang đèn của ta, ở trên trời có thể an tĩnh..."
Dương Thu Trì nói: "Thổ ti đại nhân, tôi có thể giúp ông tra ra trong số này có cái nào là di hài của tôn phu nhân hay không."
Dát Cát Ước vừa kinh vừa mừng: "Thật không?"
"Không thành vấn đề! Giỏi lắm trong vòng ba ngày, ta có thể phục nguyên tướng mạo của di hài giống tôn phu nhân trong này nhất, xác nhận xem có phải là đúng người hay không."
Kỳ thật, muốn xác nhận trong số di hài này có thi hài của mẹ A Hạnh Ny hay không, đơn giản nhất là sử dụng DNA trong các di hài này (ví dụ như lấy ở tủy răng) sau đó tiến hành so sánh với DNA của A Hạnh Ny, nếu có thể xác định tồn tại quan hệ thân thuộc, thì có thể chứng minh đó là di hài của A Hạnh Ny. Nhưng đối với Dương Thu Trì hiện giờ, điều đó là không thể thực hiện, đừng nói gì giám định DNA, ngay cả giám định nhóm máu đơn giản cũng không thể tiến hành, nhân vì hắn gần như tay không xuyên việt tới đây. Biện pháp duy nhất có thể tiến hành là phục nguyên phần đầu mặt, điều này thuộc pháp trù nhân loại học của pháp y, đối với pháp y mà nói thì là một trong các kỹ năng cơ bản nhất. Hiện giờ hắn có tướng mạo của A Hạnh Ny làm đối tượng tham khảo, rất có lợi cho phục hồi mặt mũi.
Dát Cát Ước bán tín bán nghi: "Dương đại nhân, lời này là thật?"
"Không thành vấn đề! Ta chỉ cần một ít đất sét và thời gian mấy ngày, đảm bảo có thể phục nguyên dáng vẻ cũ của khô lâu! Nhưng mà..."
Lòng Dát Cát Ước rất khẩn trương, vội hỏi: "Nhưng mà thế nào?"
"Ta nếu có thể khôi phục diện mạo của tôn phu nhân, hi vọng thổ ti đại nhân có thể giúp ta một chuyện, kỳ thật, chuyện giúp ta này cũng là tự giúp cho thổ ti đại nhân ngài!"
"Đại nhân cứ nói. Đừng nói gì đại nhân giúp xác đinh di hài của chuyết kinh (bà xã nhà), cho dù không có chuyện này, đại nhân cứu con gái ta, cũng coi như là cứu ta. Do đó, chỉ cần đại nhân nói ra, lão phu nhất định sẽ đáp ứng!"
"Vậy được! Hiện giờ đại quân của Trương Hiến Trung đang tiến gần Trường sa, không biết có tiến công vào Quý châu hay không. Nếu như Trương tặc quân đánh tới, ta hi vọng thổ ti đại nhân có thể hiệp trợ ta bảo hộ bá tánh một vùng quanh Kiềm Dương huyện!"
Dát Cát Ước bất ngờ nhìn Dương Thu Trì, lát sau mới đứng dậy, vái dài một lễ: "Nghe nói Dương đại nhân mới đến Kiềm Dương huyện, thế mà đã lo nghĩ đến sự bình an của bá tánh chúng tôi, lão phu thập phần bội phục. với lòng nhiệt huyết này của Dương đại nhân, lão phu dù có huyết nhiễm sa trường cũng nhất định hiệp trợ Dương đại nhân bảo hộ bình an cho bá tánh!"
"Đa tạ!" Dương Thu Trì vô cùng cao hứng, có viện quân cường lực này, lòng hắn đã đại định.
Hắn bước đến hương án, quan sát từng đầu lâu, đột nhiên thần tình ngưng trong, cầm một cái trong đó lên tử tế nhìn một lúc, đặt xuống, lại cầm cái khác lên, xem luôn cả bốn năm cái. Xong hắn cầm đầu lâu xem đầu tiên lên nhìn kỹ ngẩn ngơ, dùng ngón tay sờ mó một cái lỗ nho nhỏ ở trên trán, hỏi: "Thổ ti đại nhân, trong Miêu quân có người sử dụng súng nòng nhỏ sao?"
Dát Cát Ước ngẩn người, cúi đầu xem xét cái lổ nhỏ trên trán của đầu lâu đó: "Sao hả?"
"Thỉnh thổ ti đại nhân xem, mấy cái đầu lâu này đều có lổ đạn, nhưng miệng lổ đạn rõ ràng to nhỏ bất đồng, trong đó có cái nhỏ hơn nhiều. Theo như ta biết, trước mắt hỏa sung có miệng hơi to, nếu như bắn vào trán người, hình thành cái lổ phải to gấp ba lần cái này! Hơn nữa, do tốc độ của đạn, hình thành cái lổ xem ra không trơn mượt thế này. Nếu so sánh, sẽ thấy lổ đạn ở các đầu lâu khác có vẻ thô hơn nhiều."
Dát Cát Ước đương nhiên phân biệt không ra những sự khác biệt của lổ đạn này, nghi hoặc hỏi: "Điều này có gì khác biệt sao?"
"Khác biệt rất lớn! Miệng vết bắn nhỏ mà thành lại trơn tru, cho thấy đây là loại đạn nhỏ khoảng 1/3 đang thường di chuyển theo hình xoáy tròn vận tốc cực cao hình thành nên!"
Dương Thu Trì không nói kỹ, nhưng đã nói ra điều quan trọng nhất. Thời Minh mạt đều sử dụng những loại súng có nòng to lắp đạn vào phía trước, tức là bỏ hỏa dược và viên đạn kim loại vào, thông thường là hình tròn, dùng cây chùy gỗ lèn chặt, viên đạn càng tiếp xúc khẩn mật với nòng súng, thì uy lực càng lớn. Tuy lúc đó đã nhận thức tử đạn xoáy tròn càng đảm bảo độ chính xác của đạn bắn ra, nhưng do nòng súng hình xoáy sẽ ảnh hưởng tính khẩn mật của viên đạn tiếp súng với nòng, cho nên nòng trước đó đều là nòng trơn, bên trong láng bóng, không như súng ống hiện tại đều có hình xoắn ốc ở nòng.
Tuy nhiên, lổ đạn mà Dương Thu Trì quan sát thấy ở đầu lâu có phạm vi nhỏ, thành vết thủng trơn nhẵn, thuộc về vết thương do đạn xoáy tròn mà hình thành, hơn nữa tốc độ rất cao, đường kính nhỏ... Điều này cho thấy đã được bắn ra từ loại súng có uy lực lớn hơn loại hỏa súng sử dụng thuốc nổ đen đang dùng thông dụng ở thời Minh này nhiều (*)
Lúc này, tim của Dương Thu Trì đập loạn nhịp. Lổ đạn này chỉ có khoảng 9 mm, tuy hơi thô so với lổ đan hiện tại, nhưng phát hiện này đối với hắn mà nói thì người bắn ra viên đạn này đã nắm bắt được những nguyên liệu chủ yếu để chế tạo thuốc súng hiện đại, ví dụ như a xit ni tric (HNO3), a xit sulfuric (H2SO4), ether. Nếu như có thể tạo súng đạn hiện đại, thì hắn cũng có thể chế tạo một đội quân trang bị vũ khí cận hiện đại rồi!
Chú thích:
Thuốc nổ đen là một hỗn hợp của kali nitrat, than gỗ, lưu huỳnh với tỷ lệ theo khối lượng (75% kali nitrat, 15% than gỗ, 10% lưu huỳnh). Tỷ lệ trộn đã thay đổi sau nhiều thế kỷ sử dụng, và cũng có thể thay đổi lại tùy vào mục đích sử dụng.
Thời trung cổ, thuốc nổ đen ở Trung Quốc có tên hỏa dược (火藥, nghĩa là "thuốc cháy"), ở châu Âu nhiều người gọi là black powder (thuốc nổ đen), meal powder (thuốc bột) cũng có người gọi là gunpowder (thuốc súng). Nhiều cách gọi như thế vì trước đây chỉ có mỗi thuốc nổ đen vừa làm thuốc nổ vừa làm thuốc súng và vừa làm thuốc cháy. Từ gunpowder ngày nay vẫn dùng mặc dù thuốc súng đã đổi khác nhiều. Thuốc nổ đen dạng bột mịn, màu đen xám của bột than, có thể có ánh kim của bột nhôm, mùi khó ngửi của lưu huỳnh. Ngoài ra, còn một số phụ gia khác như hồng hoàng để bắt cháy chẳng hạn.
Thuốc nổ đen dễ hút ẩm do đặc điểm của nitrat kali giã mịn. Thuốc nổ đen có thành phần bột nhôm rất nhanh chóng biến chất khi tiếp xúc với không khí.
Thuốc nổ đen là hỗn hợp nitrat kali (KNO3), bột than củi giã mịn. So với các thuốc nổ khác, thuốc nổ đen dễ bắt cháy, tốc độ nổ không cao nhưng không thể kiểm soát được, năng lượng nổ yếu, sản phẩm cháy nhiều phần rắn gây hỏng thiết bị (như nòng). Nhiệt độ bắt cháy của thuốc nổ đen chỉ hơn 200°C, thời cổ, những loại thuốc cháy chứa muối thủy ngân và nhiều lưu huỳnh có nhiệt độ bắt cháy thấp hơn, chỉ 160°C, nhiệt độ bắt cháy cũng giảm khi sử dụng nguyên liệu tồi như phân dơi.
Nhiệt độ bắt cháy không ổn định khi thành phần thuốc không chính xác. Các súng dùng thuốc nổ đen làm thuốc súng thường ngắn, nặng, yếu. Loại súng mạnh nhất được thiết kế để dùng thuốc nổ đen là hải pháo. Nhược điểm chính của thuốc đen là mật độ năng lượng (hay khả năng sinh công) của nó thấp (so sánh với các loại thuốc phóng không khói hiện đại) và tạo thành rất nhiều muội khói. Trong quá trình cháy, không đầy một nửa lượng thuốc đen được chuyển thành khí. Kết quả của việc bắn súng là sự tạo thành lớp muội bên trong nòng súng và một đám khói đậm đặc. Do đó nòng súng dễ bị ôxi hóa gây gỉ và hỏng.
Dát Cát Ước mỉm cười bảo Dương Thu Trì ngồi xuống trước, sau đó hai tay chấp lại cúi đầu niệm kinh, một lúc sau mới mở mắt ra hỏi: "Dương đại nhân có gì chỉ dạy, cứ nói đi không sao."
Dương Thu Trì nhất thời không bíêt mở lời thế nào, nhìn lên hương án có bày mấy cái đầu lâu đó, tùy tiện hỏi: "Thổ ti lão gia đang tụng kinh à?"
Dát Cát Ước khẽ thở dài: "Ai...! Đúng vậy, là tụng kinh cho nương tử của ta."
Dương Thu Trì hơi kinh ngạc, thầm nghĩ thường người ta chỉ gọi nguyên phối là nương tử, và thường chỉ có một, chẳng lẽ Đồng gia có thể đồng thời cưới nhiều nguyên phối phu nhân, là vợ cùng bình đẳng hết hay sao?
Dát Cát Ước tựa hồ nhìn ra vẻ kinh ngạc của Dương Thu Trì, trong mắt lộ ra vẻ bi thương vô hạn, trầm giọng nói: "Trong số khô lâu đầu ở đây chí có một người là nương tử của ta, nhưng ta không biệt được rốt cuộc là cái đầu lâu nào trong số đó."
Dương Thu Trì càng kinh ngạc hơn, biết khẳng định là một chuyện cũ rất thương tâm, do đó không chủ hỏi.
Dát Cát Ước từ từ nói tiếp: "Mười năm trước, lúc A Ny mới năm sáu tuổi, miêu quân Ma Dương khởi sự, đánh quan binh đại bại, đánh vào huyện thành Ma Dương. Triều đình đang lo đối phó quân đội của Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung, không thể tăng binh, chỉ phái ta lĩnh Đồng quân đi bình lọan, hứa là sau khi bình định sẽ đem vùng Ma Dương cho ta quản. Và thế là ta khẩn cấp chinh điều một vạn Đồng quân kéo đến chinh tiễu, dưới sự phối hợp của quan binh, ta đả đánh bại Miêu quân ở Ma Dương, Trấn Cao, thu phục Ma Dương thành. Không ngờ Miêu quân nhân lúc hậu phương của ta trống rỗng, đã đánh lén vào trang viên Đồng trại của ta, giết không ít dân chúng của ta. Ta nghe tin mang binh khẩn cấp quay về cứu viện, tiêu diệt hết Miêu quân đánh lén, nhưng nam đinh trong trang viên của ta đã bị giết sạch, nữ tử... thì bị lột sạch quần áo dày vò rồi giết chết hết. Rất may là A Hạnh Ny lúc đó theo ta xuất chinh, nên mới hạnh miễn. Mẹ nó chết trong trường nạn tai này. Do đang là mùa hè nóng bức, khi đại quân của ta trở về thì thi thể toàn trại đã thối rữa hết. Do nữ tử bị lột sạch quần áo bị lăng nhục rồi sát hại, nên căn bản không nhận ra ai là ai, không cách gì xác nhận xương cốt của nương tử ta. Ta đau đớn đã huyết tẩy Miêu trại Ma Dương, nhưng không thể lấy lại được mẹ của A Ny...."
Lòng Dương Thu Trì ảm đạm. Chiêu lấy người man trị người man này của triều đình quá lợi hại. Như thế này thì người Miêu và người Đồng trở thành cừu, tàn sát lẫn nhau, thế lực đại giảm, tự nhiên không còn lực tạo phản làm loạn nữa.
Dát Cát Ước thở dài: "Ai, đáng thương cho mẹ của A Ny, sau khi chết rồi ta không thể nào phân biện được xương cốt của nàng ấy, chỉ đành đem thây cốt giống giống gom lại hết, đặt trên hương án cùng cung phụng, chỉ hi vọng trong này có xương cốt của nàng ấy, hưởng được chút nhang đèn của ta, ở trên trời có thể an tĩnh..."
Dương Thu Trì nói: "Thổ ti đại nhân, tôi có thể giúp ông tra ra trong số này có cái nào là di hài của tôn phu nhân hay không."
Dát Cát Ước vừa kinh vừa mừng: "Thật không?"
"Không thành vấn đề! Giỏi lắm trong vòng ba ngày, ta có thể phục nguyên tướng mạo của di hài giống tôn phu nhân trong này nhất, xác nhận xem có phải là đúng người hay không."
Kỳ thật, muốn xác nhận trong số di hài này có thi hài của mẹ A Hạnh Ny hay không, đơn giản nhất là sử dụng DNA trong các di hài này (ví dụ như lấy ở tủy răng) sau đó tiến hành so sánh với DNA của A Hạnh Ny, nếu có thể xác định tồn tại quan hệ thân thuộc, thì có thể chứng minh đó là di hài của A Hạnh Ny. Nhưng đối với Dương Thu Trì hiện giờ, điều đó là không thể thực hiện, đừng nói gì giám định DNA, ngay cả giám định nhóm máu đơn giản cũng không thể tiến hành, nhân vì hắn gần như tay không xuyên việt tới đây. Biện pháp duy nhất có thể tiến hành là phục nguyên phần đầu mặt, điều này thuộc pháp trù nhân loại học của pháp y, đối với pháp y mà nói thì là một trong các kỹ năng cơ bản nhất. Hiện giờ hắn có tướng mạo của A Hạnh Ny làm đối tượng tham khảo, rất có lợi cho phục hồi mặt mũi.
Dát Cát Ước bán tín bán nghi: "Dương đại nhân, lời này là thật?"
"Không thành vấn đề! Ta chỉ cần một ít đất sét và thời gian mấy ngày, đảm bảo có thể phục nguyên dáng vẻ cũ của khô lâu! Nhưng mà..."
Lòng Dát Cát Ước rất khẩn trương, vội hỏi: "Nhưng mà thế nào?"
"Ta nếu có thể khôi phục diện mạo của tôn phu nhân, hi vọng thổ ti đại nhân có thể giúp ta một chuyện, kỳ thật, chuyện giúp ta này cũng là tự giúp cho thổ ti đại nhân ngài!"
"Đại nhân cứ nói. Đừng nói gì đại nhân giúp xác đinh di hài của chuyết kinh (bà xã nhà), cho dù không có chuyện này, đại nhân cứu con gái ta, cũng coi như là cứu ta. Do đó, chỉ cần đại nhân nói ra, lão phu nhất định sẽ đáp ứng!"
"Vậy được! Hiện giờ đại quân của Trương Hiến Trung đang tiến gần Trường sa, không biết có tiến công vào Quý châu hay không. Nếu như Trương tặc quân đánh tới, ta hi vọng thổ ti đại nhân có thể hiệp trợ ta bảo hộ bá tánh một vùng quanh Kiềm Dương huyện!"
Dát Cát Ước bất ngờ nhìn Dương Thu Trì, lát sau mới đứng dậy, vái dài một lễ: "Nghe nói Dương đại nhân mới đến Kiềm Dương huyện, thế mà đã lo nghĩ đến sự bình an của bá tánh chúng tôi, lão phu thập phần bội phục. với lòng nhiệt huyết này của Dương đại nhân, lão phu dù có huyết nhiễm sa trường cũng nhất định hiệp trợ Dương đại nhân bảo hộ bình an cho bá tánh!"
"Đa tạ!" Dương Thu Trì vô cùng cao hứng, có viện quân cường lực này, lòng hắn đã đại định.
Hắn bước đến hương án, quan sát từng đầu lâu, đột nhiên thần tình ngưng trong, cầm một cái trong đó lên tử tế nhìn một lúc, đặt xuống, lại cầm cái khác lên, xem luôn cả bốn năm cái. Xong hắn cầm đầu lâu xem đầu tiên lên nhìn kỹ ngẩn ngơ, dùng ngón tay sờ mó một cái lỗ nho nhỏ ở trên trán, hỏi: "Thổ ti đại nhân, trong Miêu quân có người sử dụng súng nòng nhỏ sao?"
Dát Cát Ước ngẩn người, cúi đầu xem xét cái lổ nhỏ trên trán của đầu lâu đó: "Sao hả?"
"Thỉnh thổ ti đại nhân xem, mấy cái đầu lâu này đều có lổ đạn, nhưng miệng lổ đạn rõ ràng to nhỏ bất đồng, trong đó có cái nhỏ hơn nhiều. Theo như ta biết, trước mắt hỏa sung có miệng hơi to, nếu như bắn vào trán người, hình thành cái lổ phải to gấp ba lần cái này! Hơn nữa, do tốc độ của đạn, hình thành cái lổ xem ra không trơn mượt thế này. Nếu so sánh, sẽ thấy lổ đạn ở các đầu lâu khác có vẻ thô hơn nhiều."
Dát Cát Ước đương nhiên phân biệt không ra những sự khác biệt của lổ đạn này, nghi hoặc hỏi: "Điều này có gì khác biệt sao?"
"Khác biệt rất lớn! Miệng vết bắn nhỏ mà thành lại trơn tru, cho thấy đây là loại đạn nhỏ khoảng 1/3 đang thường di chuyển theo hình xoáy tròn vận tốc cực cao hình thành nên!"
Dương Thu Trì không nói kỹ, nhưng đã nói ra điều quan trọng nhất. Thời Minh mạt đều sử dụng những loại súng có nòng to lắp đạn vào phía trước, tức là bỏ hỏa dược và viên đạn kim loại vào, thông thường là hình tròn, dùng cây chùy gỗ lèn chặt, viên đạn càng tiếp xúc khẩn mật với nòng súng, thì uy lực càng lớn. Tuy lúc đó đã nhận thức tử đạn xoáy tròn càng đảm bảo độ chính xác của đạn bắn ra, nhưng do nòng súng hình xoáy sẽ ảnh hưởng tính khẩn mật của viên đạn tiếp súng với nòng, cho nên nòng trước đó đều là nòng trơn, bên trong láng bóng, không như súng ống hiện tại đều có hình xoắn ốc ở nòng.
Tuy nhiên, lổ đạn mà Dương Thu Trì quan sát thấy ở đầu lâu có phạm vi nhỏ, thành vết thủng trơn nhẵn, thuộc về vết thương do đạn xoáy tròn mà hình thành, hơn nữa tốc độ rất cao, đường kính nhỏ... Điều này cho thấy đã được bắn ra từ loại súng có uy lực lớn hơn loại hỏa súng sử dụng thuốc nổ đen đang dùng thông dụng ở thời Minh này nhiều (*)
Lúc này, tim của Dương Thu Trì đập loạn nhịp. Lổ đạn này chỉ có khoảng 9 mm, tuy hơi thô so với lổ đan hiện tại, nhưng phát hiện này đối với hắn mà nói thì người bắn ra viên đạn này đã nắm bắt được những nguyên liệu chủ yếu để chế tạo thuốc súng hiện đại, ví dụ như a xit ni tric (HNO3), a xit sulfuric (H2SO4), ether. Nếu như có thể tạo súng đạn hiện đại, thì hắn cũng có thể chế tạo một đội quân trang bị vũ khí cận hiện đại rồi!
Chú thích:
Thuốc nổ đen là một hỗn hợp của kali nitrat, than gỗ, lưu huỳnh với tỷ lệ theo khối lượng (75% kali nitrat, 15% than gỗ, 10% lưu huỳnh). Tỷ lệ trộn đã thay đổi sau nhiều thế kỷ sử dụng, và cũng có thể thay đổi lại tùy vào mục đích sử dụng.
Thời trung cổ, thuốc nổ đen ở Trung Quốc có tên hỏa dược (火藥, nghĩa là "thuốc cháy"), ở châu Âu nhiều người gọi là black powder (thuốc nổ đen), meal powder (thuốc bột) cũng có người gọi là gunpowder (thuốc súng). Nhiều cách gọi như thế vì trước đây chỉ có mỗi thuốc nổ đen vừa làm thuốc nổ vừa làm thuốc súng và vừa làm thuốc cháy. Từ gunpowder ngày nay vẫn dùng mặc dù thuốc súng đã đổi khác nhiều. Thuốc nổ đen dạng bột mịn, màu đen xám của bột than, có thể có ánh kim của bột nhôm, mùi khó ngửi của lưu huỳnh. Ngoài ra, còn một số phụ gia khác như hồng hoàng để bắt cháy chẳng hạn.
Thuốc nổ đen dễ hút ẩm do đặc điểm của nitrat kali giã mịn. Thuốc nổ đen có thành phần bột nhôm rất nhanh chóng biến chất khi tiếp xúc với không khí.
Thuốc nổ đen là hỗn hợp nitrat kali (KNO3), bột than củi giã mịn. So với các thuốc nổ khác, thuốc nổ đen dễ bắt cháy, tốc độ nổ không cao nhưng không thể kiểm soát được, năng lượng nổ yếu, sản phẩm cháy nhiều phần rắn gây hỏng thiết bị (như nòng). Nhiệt độ bắt cháy của thuốc nổ đen chỉ hơn 200°C, thời cổ, những loại thuốc cháy chứa muối thủy ngân và nhiều lưu huỳnh có nhiệt độ bắt cháy thấp hơn, chỉ 160°C, nhiệt độ bắt cháy cũng giảm khi sử dụng nguyên liệu tồi như phân dơi.
Nhiệt độ bắt cháy không ổn định khi thành phần thuốc không chính xác. Các súng dùng thuốc nổ đen làm thuốc súng thường ngắn, nặng, yếu. Loại súng mạnh nhất được thiết kế để dùng thuốc nổ đen là hải pháo. Nhược điểm chính của thuốc đen là mật độ năng lượng (hay khả năng sinh công) của nó thấp (so sánh với các loại thuốc phóng không khói hiện đại) và tạo thành rất nhiều muội khói. Trong quá trình cháy, không đầy một nửa lượng thuốc đen được chuyển thành khí. Kết quả của việc bắn súng là sự tạo thành lớp muội bên trong nòng súng và một đám khói đậm đặc. Do đó nòng súng dễ bị ôxi hóa gây gỉ và hỏng.