Kỵ binh của Ngải Năng Kỳ lần đầu tiên đụng phải đạn súng máy quét, chiến mã đang chạy trúng đạn ngã rụi hất văng kỵ binh trên lưng ra xa. Kỵ binh bị ngã ở trước trở thành chướng ngại của kỵ binh phía sau. Nhưng kẻ có huấn luyện muốn tung ngựa phóng qua, nhưng bị đạn súng máy như mưa biến thành tổ ong, rơi phịch xuống đất.
Ngải Năng Kỳ đứng ở trên cao nhìn rất rõ, kinh hãi đến ngẩn người. Đây là vũ khí quái thú trong truyền thuyết hay sao?
Y phát hiện tình huống vô cùng không ổn, cho dù khinh kỵ binh của y có tốc độ đạt đến cao nhất, cũng không có cách gì vượt qua hai đạo phòng tuyến vô hình này. Dù cho trọng giáp kỵ binh có đủ sức ngăn cung tên và hỏa súng xạ kích, nhưng vẫn bị đạn súng này bắn nát người mà chết. Y vội vã hạ lệnh rút kỵ binh về sau, y như cũ dùng thuận bài tạo thành tường phòng hộ bảo vệ hai cánh, đồng thời tiền phong tiếp tục xung phong về trước, tranh thủ hỗn chiến với địch quân, khiến cho vũ khí quái thú của đối phương không cách gì bắn quét.
Địch quân chấp hành mệnh lệnh rất kiên quyết, và thế là, sau khi vô số người ngã chết, cuộc đại hỗn chiến giữa hai bên cuối cùng cũng bắt đầu!
Súng máy của Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ tức thời im miệng, vì đối diện với hai chục vạn người hỗn chiến lại với nhau, địch ta khó phân, không thể nào bắn được.
Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đều lần đầu tiên dùng súng máy tiến hành thực chiến, mới đầu bắn rất thống khoái, không ngờ khi hai bên hỗn chiến, súng máy quét qua thấy cả quân của mình cũng chết, nên vội vã dừng lại, đổi thành bắn phát một. Nhưng đạn súng máy có lực xuyên quá mạnh, nên giết 1 lúc ba bốn người, cả địch lẫn ta.
Cho nên, ngay bắn đơn họ cũng không dám nữa!
Rất may là địch nhân sợ họ, trừ những kẻ điên cuồng không sợ chết xông tới chầu trời sớm, những kẻ khác đều biết họ không dám bắn loạn, nên cứ coi như không thấy, chỉ lo chém giết với nhau.
Dương Thu Trì dùng kính viễn vọng nhìn rõ ở một gò núi nhỏ có treo cờ chữ soái, biết là bộ chỉ huy của địch. Hai bên hỗn chiến, hắn biết lúc này không còn tồn tại chuyện chỉ huy, chỉ dựa vào thiên mệnh mà thôi, nên dùng phi tác xuống đài, lên xe ngựa có súng máy của mình, cho A Hạnh Ny cung cấp đạn, Hồ Thủy đổ nước, len qua cánh xông lên gò núi đó.
Lần này hắn không muốn để lỡ thời cơ, nên dù còn cách 1000 mét, hắn vẫn nổ súng, trong mơ hồ, hắn thấy trên núi đó có rất nhiều binh sĩ địch ngã xuống, nhưng không rõ có tướng soái của địch hay không.
Bộ chỉ huy của địch xem ra đã đề phòng đến chuyện này, nên lập tức điều tăng thổ tả hậu bị chắn trước địch quân trên núi, một bộ phận khác kéo tới, tháo ra mấy chục khẩu Phất Lãng Cơ nhắm chuẩn họ.
Địch quân không ngốc, đánh lén không thành, đành phải chạy nhanh, nếu không trúng phải một thiết đạn thì tiêu đời!
Đến hậu phương, thấy kỵ binh của hai đoàn còn ở xa không biết làm gì, Dương Thu Trì chợt động tâm, lệnh cho đoàn trường Vũ Kỳ và Đô CƯờng mang binh sĩ vác thi thể tới chất thành một đống.
Hai người không biết Dương Thu Trì định làm gì, nhưng quân lệnh như sơn, họ vội mang kỵ binh xông vào địch trận, cướp thi thể trên đất rồi chạy, bất quản là địch hay là người mình. Địch quân không biết họ làm vậy để chi, do sợ có súng máy của Dương Thu Trì nên không dám truy kích.
Thật nhanh sau đó, thi thể được chất thành gò cao đến 5 mét.
Dương Thu Trì đã tháo súng máy chuyển từ xe ngựa xuống, bảo A Hạnh Ny và Hồ Thủy vác đạn và nước theo hắn lên gò thi thể, đặt cho thật chắc, rồi dùng cách điểm xạ từng phát một bắn vào địch trận.
Do vị trí bắn cao, từ trên bắn xuống, lực xuyên thấu của đạn qua người rồi xuống đất, không gây thương vong cho người nhà. Hơn nữa tầm bắn của súng máy đạt 1000 mét, sử dụng thuốc súng không khói, độ chính xác cao, dường như 1 phát giết 1 tên, địch đua nhau ngã. Thấy cách này hữu hiệu, Dương Thu Trì nhân lúc châm nước, nói với Vũ Kỳ và Đô Cường ở phía sau: "Mau! Hai người dẫn đội đến thông tri Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ, giúp họ tạo thành gò cao thế này dùng bắn đơn mà đánh, nhanh lên!"
Hai người vội đáp ứng, chia nhau dẫn đội chạy đi.
Hai chục vạn người đánh đại hỗn chiến, phạm vị đạt mấy km vuông, Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đầu óc hơi thanh tỉnh, nên phân tán xe ngựa chứa súng máy ở hai đầu chiến trường, các xa hỗn chiến, ở xa không dám bắn loạn.
Vũ Kỳ và Đô Cương mang kỵ binh phân biệt tìm thấy hai người, giúp chất thi thể làm gò cao, bảo họ dùng đơn phát nhắm bắn địch trong đám hỗn loạn. Như vậy, ba cây súng máy trở thành ba súng bắn tỉa, từ ba phương vị ứng vào hình chữ phẩm bắn địch quân trong trận hỗn loạn.
Xe tăng thổ tả có thể chống súng máy của địch quân đã rơi vào hỗn chiến, không thể kéo ra. Bộ chỉ huy của địch tuy còn một bộ phận thiết xa này, nhưng chúng sợ một khi xuất kích, Dương Thu Trì sẽ mượn cơ hội đánh lén, nên chỉ cố thủ. Địch quân toan tính dùng thuẫn bài yểm hộ đến chém họ, nhưng thuẫn bài này không thể ngăn đạn súng máy, còn bản sắt dày hơn thì quá nặng, không thể đưa lên.
Do ba súng máy cứ nhằm kẻ địch đầu sỏ mà bắn, tuy gây sát thương với số lượng có hạn, nhưng vẫn cấp cho địch quân sự ảnh hưởng tâm lý rất lớn, khiến cục thế hỗn chiến dần dần cải biến.
Trường hỗn chiến này nhất mực tiến hành từ giữa trưa đến trời tối. Hai bên đều tử thương hai vạn người. Về phía Ngải năng Kỳ, chủ yếu lượng tổn thất là vì lão sáo đồng và tạc đạn của Dương Thu Trì. Khi vào hỗn chiến thì đại quân của Dương Thu Trì nhanh chóng tử thương. Sau đó, bọn Dương Thu Trì chất thi thể thành gò cao, dùng ba cây súng máy bắn tỉa, từ từ cân bằng tổn thất, cho nên, đánh tới trời tối thì tử thương của hai bên tương đương.
Trời đêm phủ trùm xuống, tối đen như mực, đưa tay ra trước mặt không thấy ngón tay, không nhận rõ đối diện là địch hay bạn, cho nên không cách nào tác chiến.
Hai bên đều khua chiêng thu binh, tướng sĩ đều không dám xuất chiêu loạn, chia nhau kéo vũ khí nặng trở về sau, thoát ly chiến trường.
Tổn thất hai vạn người, tuy gần bằng địch quân, nhưng khiến Dương Thu Trì ủ rũ vô cùng. Điều này chứng tỏ một vấn đề đã từng được Mao Trạch Đông chỉ rõ: "Vũ khí là yếu tố trọng yếu trong chiến tranh, nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố quyết định đó là người, không phải vật."
Dương Thu Trì hiện giờ coi như đã hiểu điểm này. Đây mới chỉ là tác chiến ở bình nguyên, chưa vào vùng đồi núi. Nếu vào vùng đó, e rằng còn phiền phức hơn.
Đại quân lui về hậu phương hạ trại, trong lòng hắn rất buồn, mang du kích tướng quân Long Bỉnh và A Hạnh Ny, Liễu Nhược Băng cùng mọi người đi thăm tướng sĩ thụ thương xong, kiểm tra trang bị hao tổn, thấy còn 5 vạn viên đạn, thuốc nổ và pháo đạn còn khá nhiều, hơn 1000 phát.
Trở về quân trướng, hắn lập tức triệu tập các thám tướng và thiên tổng đoàn trưởng của kỵ binh mở cuộc họp.
Dương Thu Trì sau khi chiếm An Khánh, khoách quân 10 vạn, biên thành 12 sư đoàn. Sau trận chiến này tổn thất hết gần hai phần mười, ba tham tướng (sư trưởng) chiến tử, do đó, ba phó tham tướng đến thay.
Sau khi đến đại doanh ngồi, Dương Thu Trì nói: "Trận này tuy chưa ai chiếm tiện nghi, nhưng nói thật ta rất thất vọng, mọi người nói coi, trận kế nên đánh thế nào?"
Tình tự của mọi người đều không vui, nhất thời không ai nói gì.
Vũ Kỳ phát ngôn trước: "Mới đầu đánh rất thuận lợi, nhưng mấy trăm cái thiết luân xa của địch xuất trận thì chúng ta phiền phức ngay. Còn nữa, địch quân có thuẫn bài bằng sát, nếu ép hai cái làm thuẫn bài đôi thì chẳng thể bắn thủng, muốn khắc địch chế thắng phải giải quyết hai vấn đề này trước."
Pháo binh tham tướng nói: 'Đúng a, dùng thiết đạn đánh Thiết luân xa không sai, nếu có thể phóng gần hơn thì đánh càng chuẩn, đảm bảo 1 phát 1 cái, nhưng sau đó phải giải quyết địch quân thừa thế xông tới."
Long Bỉnh dù sao cũng có kinh nghiệm tác chiến phong phú, lắc đầu nói: "Địch quân không phải ngốc, sẽ cải tiến chiến pháp đối địch với ta. Tên Ngải Năng Tề này giảo hoạt phi thường, giỏi về động não, cho nên, lần chiến kế, phương pháp tác chiến của địch sẽ có điều chỉnh tương ứng."
Đây là điều Dương Thu Trì quan tâm nhất, hỏi: "Nếu như ngươi là thủ lĩnh địch quân, nên điều chỉnh chiến lược đối phó quân ta thế nào?"
Long Bỉnh không cần khiêm tốn, đáp: "Trước hết, điều chỉnh Thiết luân xa từ nóc ngang thành nóc tam giác, mắt trước ngang thành hơi nghiêng, có thể dội thiết đạn ra, như vậy, cho dù có áp gần mấy xích nữa, thiết đạn cũng không cách gì đánh hư thiết xa!"
Pháo binh tham tướng Trịnh Hạo Đốn lập tức biến sắc.
Dương Thu Trì cũng chấn động, gật đầu hỏi: "Còn nữa không?"
"Thuẫn bài đơn của địch có bản thép quá mỏng, không chống được đạn, hơn nữa diện tích quá lớn, cho nên, bước tiếp theo xem ra sẽ bảo trì sức nặng nhưng làm dày lớp sắt, rút bớt diện tích. Như vậy vừa dễ di động, vừa có thể chế tạo thành hình tam giác, có thể hất đạn ra, lại tiện dựng trên đất, hai thuận bài áp vào nhau sẽ thành một tường phòng hộ cao bằng đầu người. Còn có thể làm cho bốn góc khuyết, khi ghép lại có lổ để bắn hỏa súng và tên nỏ ra bên ngoài.
Lời này khiến mọi người đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy phiền phức đến rồi.
A Hạnh Ny bĩu môi nói: "Cải biến nhiều thứ như vậy 10 ngày nửa tháng cũng chưa xong a."
"Không sai!" Long Bỉnh nói, "Ngải Năng Kỳ phát hiện quân đội của hắn không xơi nổi chúng ta, e rằng sẽ không chủ động tiến công trong mấy ngày tới, nhất định sẽ cải tiến và chế tạo trạng bị phòng ngự vũ khí của ta chờ viện binh từ Trường Sa và Hành Dương tới rồi mới đánh."
A Hạnh Ny nói: "Nhưng chúng ta không thể chờ, không thể để địch quân chuẩn bị xong rồi mới đánh. Hơn nữa theo ta thấy không phức tạp vậy đâu, lần này chúng ta chịu thiệt là không thể sử dụng khai hoa tạc đạn của Thu Trì ca, mấy nghìn tạc đạn đó đánh tới, đảm bảo địch quân sẽ chạy loạn."
Một tham tướng khác nói: "Địch quân nếu phân tán binh lực, dùng cách nằm bò ẩn né, thì tạc đạn có tác dụng không lớn."
Long Bỉnh chen lời: "Địch quân phân tán binh lực thì hay quá, chúng ta sẽ cắt ngang lưng chúng, dùng ưu thế binh lực tiêu diệt 1 bộ phận chúng, rồi quay đầu diệt phần còn lại!"
Một tham tướng khác nói: "Phân nửa địch còn lại không ngu, sao không đến cứu viện chứ?"
Hai người bắt đầu tranh cãi, mọi người cũng mỗi người một lời chen vào. Bọn họ tranh đến náo nhiệt, nhưng đã khiến Dương Thu Trì nghĩ ra một phương pháp phá địch. Cuối cùng, hắn xua tay bảo mọi người dừng lại, đem kế hoạch tác chiến nói ra, mọi người đua nhau tán đồng, lập tức y kế hành sự.
Sáng hôm sau, đại quân của Dương Thu Trì bày đội xuất phát, bức đến cách đại doanh của Ngải Năng Kỳ 5 nghìn mét thì dừng lại, địch quân không nghênh chiến, dường như muốn kéo dài thời gian.
Dương Thu Trì tiếp tục cho tiến đến 3000 mét, Hồng Di đại pháo có tầm bắn xa nhất, bắt đầu dùng pháo oanh kích địch doanh.
Địch quân cuối cùng xuất chiến, mới đầu là mấy trăm thiết xa.
Dương Thu Trì tự tin vô cùng, đại doanh của địch có thiết bị phòng hộ như hố sụp ngựa, không cho phép đánh mạnh, đành phải quyết chiến chính diện vậy.
Hắn ra lệnh đại quân lùi 2000 mét chờ địch quân bố trận.
Thật nhanh sau đó, trận hình của địch quân đã bố xong, quả nhiên là trường xà trận, hơn nữa đội hình còn tản mát hơn hôm qua, đội hình dài mấy dặm.
Dương Thu Trì lên gò cao mười mét nhìn xuống, dùng viễn vọng kính quan sát thấy địch quân hành động không nằm ngoài dự liệu, muốn dùng đội hình rộng để đối phó tạc đạn của hắn, không khỏi cao hứng. Xe tăng thổ tả và thuẫn bài của địch đã có một số ít cải thành đầu tam giác nhọn, nếu như lúc này không đánh, sau ắt sẽ phiền phức to.
Chiến pháp của địch giống hôm qua, hơi điều chỉnh một chút, đó là mấy trăm thiết xa đi tiên phong, sau là thuẫn bài binh bảo hộ hỏa pháo, hai cánh dùng thuẫn bài thép bảo hộ kỵ binh.
Khi địch quân đến gần 2000 mét, Dương Thu Trì hạ lệnh bắn hồng di đại pháo.
Lần này phát xạ là thứ pháo đạn nổ mạnh, rớt xuống đất là nổ bung ra phủ trùm địch quân trong vòng mấy trăm mét vuông. Cùng lúc đó, Phất Lãng CƠ hỏa pháo và lão sáo đồng kỵ binh cũng Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ với súng máy maxim yểm hộ chủ động xuất kích đến cự li 500 mét dừng lại.
Lúc này, hồng di đại pháo tập trung hỏa lực bắn tạc đạn khiến cho địch quân trong vòng mấy trăm mét chết hơn phân nửa, số còn sống phục dưới đất không dám ngóc đầu dậy. Đại pháo đột nhiên đình chỉ xạ kích, hai kỵ binh đoán cách đó 500 mét nhanh chóng xuất động, đánh thẳng vào trận địa rộng mấy trăm mét vừa oanh tạc xong.
Đám 1600 kỵ binh này đã bị Dương Thu Trì tối qua mắng dạy cho một trận, chủ yếu là bắn loạn phí đạn. Lần này hắn vẫn phát cho mỗi người 20 phát, lệnh là phải đến gần 200 mét mới được bắn (vẫn còn nằm ngoài tầm tên và hỏa súng), và phải ngắm kỹ mới bắn.
Do đó, sau khi pháo hỏa dừng lại, địch quân chưa bị nổ chết hoảng loạn bò dậy, thì kỵ binh cầm lão sáo đồng đã đánh tới, súng nổ người ngã, thuẫn bài phòng mặt này được những không thể phòng mặt kia, nhanh chóng bị họ diệt gọn.
Vùng mấy trăm mét này đã phân trận trường xà ra làm hai, hai đoàn đội kỵ binh chia ra hai bên bắn tràn vào địch ở hai phía.
Ngải Năng Kỳ đứng ở trên cao nhìn rất rõ, kinh hãi đến ngẩn người. Đây là vũ khí quái thú trong truyền thuyết hay sao?
Y phát hiện tình huống vô cùng không ổn, cho dù khinh kỵ binh của y có tốc độ đạt đến cao nhất, cũng không có cách gì vượt qua hai đạo phòng tuyến vô hình này. Dù cho trọng giáp kỵ binh có đủ sức ngăn cung tên và hỏa súng xạ kích, nhưng vẫn bị đạn súng này bắn nát người mà chết. Y vội vã hạ lệnh rút kỵ binh về sau, y như cũ dùng thuận bài tạo thành tường phòng hộ bảo vệ hai cánh, đồng thời tiền phong tiếp tục xung phong về trước, tranh thủ hỗn chiến với địch quân, khiến cho vũ khí quái thú của đối phương không cách gì bắn quét.
Địch quân chấp hành mệnh lệnh rất kiên quyết, và thế là, sau khi vô số người ngã chết, cuộc đại hỗn chiến giữa hai bên cuối cùng cũng bắt đầu!
Súng máy của Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ tức thời im miệng, vì đối diện với hai chục vạn người hỗn chiến lại với nhau, địch ta khó phân, không thể nào bắn được.
Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đều lần đầu tiên dùng súng máy tiến hành thực chiến, mới đầu bắn rất thống khoái, không ngờ khi hai bên hỗn chiến, súng máy quét qua thấy cả quân của mình cũng chết, nên vội vã dừng lại, đổi thành bắn phát một. Nhưng đạn súng máy có lực xuyên quá mạnh, nên giết 1 lúc ba bốn người, cả địch lẫn ta.
Cho nên, ngay bắn đơn họ cũng không dám nữa!
Rất may là địch nhân sợ họ, trừ những kẻ điên cuồng không sợ chết xông tới chầu trời sớm, những kẻ khác đều biết họ không dám bắn loạn, nên cứ coi như không thấy, chỉ lo chém giết với nhau.
Dương Thu Trì dùng kính viễn vọng nhìn rõ ở một gò núi nhỏ có treo cờ chữ soái, biết là bộ chỉ huy của địch. Hai bên hỗn chiến, hắn biết lúc này không còn tồn tại chuyện chỉ huy, chỉ dựa vào thiên mệnh mà thôi, nên dùng phi tác xuống đài, lên xe ngựa có súng máy của mình, cho A Hạnh Ny cung cấp đạn, Hồ Thủy đổ nước, len qua cánh xông lên gò núi đó.
Lần này hắn không muốn để lỡ thời cơ, nên dù còn cách 1000 mét, hắn vẫn nổ súng, trong mơ hồ, hắn thấy trên núi đó có rất nhiều binh sĩ địch ngã xuống, nhưng không rõ có tướng soái của địch hay không.
Bộ chỉ huy của địch xem ra đã đề phòng đến chuyện này, nên lập tức điều tăng thổ tả hậu bị chắn trước địch quân trên núi, một bộ phận khác kéo tới, tháo ra mấy chục khẩu Phất Lãng Cơ nhắm chuẩn họ.
Địch quân không ngốc, đánh lén không thành, đành phải chạy nhanh, nếu không trúng phải một thiết đạn thì tiêu đời!
Đến hậu phương, thấy kỵ binh của hai đoàn còn ở xa không biết làm gì, Dương Thu Trì chợt động tâm, lệnh cho đoàn trường Vũ Kỳ và Đô CƯờng mang binh sĩ vác thi thể tới chất thành một đống.
Hai người không biết Dương Thu Trì định làm gì, nhưng quân lệnh như sơn, họ vội mang kỵ binh xông vào địch trận, cướp thi thể trên đất rồi chạy, bất quản là địch hay là người mình. Địch quân không biết họ làm vậy để chi, do sợ có súng máy của Dương Thu Trì nên không dám truy kích.
Thật nhanh sau đó, thi thể được chất thành gò cao đến 5 mét.
Dương Thu Trì đã tháo súng máy chuyển từ xe ngựa xuống, bảo A Hạnh Ny và Hồ Thủy vác đạn và nước theo hắn lên gò thi thể, đặt cho thật chắc, rồi dùng cách điểm xạ từng phát một bắn vào địch trận.
Do vị trí bắn cao, từ trên bắn xuống, lực xuyên thấu của đạn qua người rồi xuống đất, không gây thương vong cho người nhà. Hơn nữa tầm bắn của súng máy đạt 1000 mét, sử dụng thuốc súng không khói, độ chính xác cao, dường như 1 phát giết 1 tên, địch đua nhau ngã. Thấy cách này hữu hiệu, Dương Thu Trì nhân lúc châm nước, nói với Vũ Kỳ và Đô Cường ở phía sau: "Mau! Hai người dẫn đội đến thông tri Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ, giúp họ tạo thành gò cao thế này dùng bắn đơn mà đánh, nhanh lên!"
Hai người vội đáp ứng, chia nhau dẫn đội chạy đi.
Hai chục vạn người đánh đại hỗn chiến, phạm vị đạt mấy km vuông, Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đầu óc hơi thanh tỉnh, nên phân tán xe ngựa chứa súng máy ở hai đầu chiến trường, các xa hỗn chiến, ở xa không dám bắn loạn.
Vũ Kỳ và Đô Cương mang kỵ binh phân biệt tìm thấy hai người, giúp chất thi thể làm gò cao, bảo họ dùng đơn phát nhắm bắn địch trong đám hỗn loạn. Như vậy, ba cây súng máy trở thành ba súng bắn tỉa, từ ba phương vị ứng vào hình chữ phẩm bắn địch quân trong trận hỗn loạn.
Xe tăng thổ tả có thể chống súng máy của địch quân đã rơi vào hỗn chiến, không thể kéo ra. Bộ chỉ huy của địch tuy còn một bộ phận thiết xa này, nhưng chúng sợ một khi xuất kích, Dương Thu Trì sẽ mượn cơ hội đánh lén, nên chỉ cố thủ. Địch quân toan tính dùng thuẫn bài yểm hộ đến chém họ, nhưng thuẫn bài này không thể ngăn đạn súng máy, còn bản sắt dày hơn thì quá nặng, không thể đưa lên.
Do ba súng máy cứ nhằm kẻ địch đầu sỏ mà bắn, tuy gây sát thương với số lượng có hạn, nhưng vẫn cấp cho địch quân sự ảnh hưởng tâm lý rất lớn, khiến cục thế hỗn chiến dần dần cải biến.
Trường hỗn chiến này nhất mực tiến hành từ giữa trưa đến trời tối. Hai bên đều tử thương hai vạn người. Về phía Ngải năng Kỳ, chủ yếu lượng tổn thất là vì lão sáo đồng và tạc đạn của Dương Thu Trì. Khi vào hỗn chiến thì đại quân của Dương Thu Trì nhanh chóng tử thương. Sau đó, bọn Dương Thu Trì chất thi thể thành gò cao, dùng ba cây súng máy bắn tỉa, từ từ cân bằng tổn thất, cho nên, đánh tới trời tối thì tử thương của hai bên tương đương.
Trời đêm phủ trùm xuống, tối đen như mực, đưa tay ra trước mặt không thấy ngón tay, không nhận rõ đối diện là địch hay bạn, cho nên không cách nào tác chiến.
Hai bên đều khua chiêng thu binh, tướng sĩ đều không dám xuất chiêu loạn, chia nhau kéo vũ khí nặng trở về sau, thoát ly chiến trường.
Tổn thất hai vạn người, tuy gần bằng địch quân, nhưng khiến Dương Thu Trì ủ rũ vô cùng. Điều này chứng tỏ một vấn đề đã từng được Mao Trạch Đông chỉ rõ: "Vũ khí là yếu tố trọng yếu trong chiến tranh, nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố quyết định đó là người, không phải vật."
Dương Thu Trì hiện giờ coi như đã hiểu điểm này. Đây mới chỉ là tác chiến ở bình nguyên, chưa vào vùng đồi núi. Nếu vào vùng đó, e rằng còn phiền phức hơn.
Đại quân lui về hậu phương hạ trại, trong lòng hắn rất buồn, mang du kích tướng quân Long Bỉnh và A Hạnh Ny, Liễu Nhược Băng cùng mọi người đi thăm tướng sĩ thụ thương xong, kiểm tra trang bị hao tổn, thấy còn 5 vạn viên đạn, thuốc nổ và pháo đạn còn khá nhiều, hơn 1000 phát.
Trở về quân trướng, hắn lập tức triệu tập các thám tướng và thiên tổng đoàn trưởng của kỵ binh mở cuộc họp.
Dương Thu Trì sau khi chiếm An Khánh, khoách quân 10 vạn, biên thành 12 sư đoàn. Sau trận chiến này tổn thất hết gần hai phần mười, ba tham tướng (sư trưởng) chiến tử, do đó, ba phó tham tướng đến thay.
Sau khi đến đại doanh ngồi, Dương Thu Trì nói: "Trận này tuy chưa ai chiếm tiện nghi, nhưng nói thật ta rất thất vọng, mọi người nói coi, trận kế nên đánh thế nào?"
Tình tự của mọi người đều không vui, nhất thời không ai nói gì.
Vũ Kỳ phát ngôn trước: "Mới đầu đánh rất thuận lợi, nhưng mấy trăm cái thiết luân xa của địch xuất trận thì chúng ta phiền phức ngay. Còn nữa, địch quân có thuẫn bài bằng sát, nếu ép hai cái làm thuẫn bài đôi thì chẳng thể bắn thủng, muốn khắc địch chế thắng phải giải quyết hai vấn đề này trước."
Pháo binh tham tướng nói: 'Đúng a, dùng thiết đạn đánh Thiết luân xa không sai, nếu có thể phóng gần hơn thì đánh càng chuẩn, đảm bảo 1 phát 1 cái, nhưng sau đó phải giải quyết địch quân thừa thế xông tới."
Long Bỉnh dù sao cũng có kinh nghiệm tác chiến phong phú, lắc đầu nói: "Địch quân không phải ngốc, sẽ cải tiến chiến pháp đối địch với ta. Tên Ngải Năng Tề này giảo hoạt phi thường, giỏi về động não, cho nên, lần chiến kế, phương pháp tác chiến của địch sẽ có điều chỉnh tương ứng."
Đây là điều Dương Thu Trì quan tâm nhất, hỏi: "Nếu như ngươi là thủ lĩnh địch quân, nên điều chỉnh chiến lược đối phó quân ta thế nào?"
Long Bỉnh không cần khiêm tốn, đáp: "Trước hết, điều chỉnh Thiết luân xa từ nóc ngang thành nóc tam giác, mắt trước ngang thành hơi nghiêng, có thể dội thiết đạn ra, như vậy, cho dù có áp gần mấy xích nữa, thiết đạn cũng không cách gì đánh hư thiết xa!"
Pháo binh tham tướng Trịnh Hạo Đốn lập tức biến sắc.
Dương Thu Trì cũng chấn động, gật đầu hỏi: "Còn nữa không?"
"Thuẫn bài đơn của địch có bản thép quá mỏng, không chống được đạn, hơn nữa diện tích quá lớn, cho nên, bước tiếp theo xem ra sẽ bảo trì sức nặng nhưng làm dày lớp sắt, rút bớt diện tích. Như vậy vừa dễ di động, vừa có thể chế tạo thành hình tam giác, có thể hất đạn ra, lại tiện dựng trên đất, hai thuận bài áp vào nhau sẽ thành một tường phòng hộ cao bằng đầu người. Còn có thể làm cho bốn góc khuyết, khi ghép lại có lổ để bắn hỏa súng và tên nỏ ra bên ngoài.
Lời này khiến mọi người đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy phiền phức đến rồi.
A Hạnh Ny bĩu môi nói: "Cải biến nhiều thứ như vậy 10 ngày nửa tháng cũng chưa xong a."
"Không sai!" Long Bỉnh nói, "Ngải Năng Kỳ phát hiện quân đội của hắn không xơi nổi chúng ta, e rằng sẽ không chủ động tiến công trong mấy ngày tới, nhất định sẽ cải tiến và chế tạo trạng bị phòng ngự vũ khí của ta chờ viện binh từ Trường Sa và Hành Dương tới rồi mới đánh."
A Hạnh Ny nói: "Nhưng chúng ta không thể chờ, không thể để địch quân chuẩn bị xong rồi mới đánh. Hơn nữa theo ta thấy không phức tạp vậy đâu, lần này chúng ta chịu thiệt là không thể sử dụng khai hoa tạc đạn của Thu Trì ca, mấy nghìn tạc đạn đó đánh tới, đảm bảo địch quân sẽ chạy loạn."
Một tham tướng khác nói: "Địch quân nếu phân tán binh lực, dùng cách nằm bò ẩn né, thì tạc đạn có tác dụng không lớn."
Long Bỉnh chen lời: "Địch quân phân tán binh lực thì hay quá, chúng ta sẽ cắt ngang lưng chúng, dùng ưu thế binh lực tiêu diệt 1 bộ phận chúng, rồi quay đầu diệt phần còn lại!"
Một tham tướng khác nói: "Phân nửa địch còn lại không ngu, sao không đến cứu viện chứ?"
Hai người bắt đầu tranh cãi, mọi người cũng mỗi người một lời chen vào. Bọn họ tranh đến náo nhiệt, nhưng đã khiến Dương Thu Trì nghĩ ra một phương pháp phá địch. Cuối cùng, hắn xua tay bảo mọi người dừng lại, đem kế hoạch tác chiến nói ra, mọi người đua nhau tán đồng, lập tức y kế hành sự.
Sáng hôm sau, đại quân của Dương Thu Trì bày đội xuất phát, bức đến cách đại doanh của Ngải Năng Kỳ 5 nghìn mét thì dừng lại, địch quân không nghênh chiến, dường như muốn kéo dài thời gian.
Dương Thu Trì tiếp tục cho tiến đến 3000 mét, Hồng Di đại pháo có tầm bắn xa nhất, bắt đầu dùng pháo oanh kích địch doanh.
Địch quân cuối cùng xuất chiến, mới đầu là mấy trăm thiết xa.
Dương Thu Trì tự tin vô cùng, đại doanh của địch có thiết bị phòng hộ như hố sụp ngựa, không cho phép đánh mạnh, đành phải quyết chiến chính diện vậy.
Hắn ra lệnh đại quân lùi 2000 mét chờ địch quân bố trận.
Thật nhanh sau đó, trận hình của địch quân đã bố xong, quả nhiên là trường xà trận, hơn nữa đội hình còn tản mát hơn hôm qua, đội hình dài mấy dặm.
Dương Thu Trì lên gò cao mười mét nhìn xuống, dùng viễn vọng kính quan sát thấy địch quân hành động không nằm ngoài dự liệu, muốn dùng đội hình rộng để đối phó tạc đạn của hắn, không khỏi cao hứng. Xe tăng thổ tả và thuẫn bài của địch đã có một số ít cải thành đầu tam giác nhọn, nếu như lúc này không đánh, sau ắt sẽ phiền phức to.
Chiến pháp của địch giống hôm qua, hơi điều chỉnh một chút, đó là mấy trăm thiết xa đi tiên phong, sau là thuẫn bài binh bảo hộ hỏa pháo, hai cánh dùng thuẫn bài thép bảo hộ kỵ binh.
Khi địch quân đến gần 2000 mét, Dương Thu Trì hạ lệnh bắn hồng di đại pháo.
Lần này phát xạ là thứ pháo đạn nổ mạnh, rớt xuống đất là nổ bung ra phủ trùm địch quân trong vòng mấy trăm mét vuông. Cùng lúc đó, Phất Lãng CƠ hỏa pháo và lão sáo đồng kỵ binh cũng Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ với súng máy maxim yểm hộ chủ động xuất kích đến cự li 500 mét dừng lại.
Lúc này, hồng di đại pháo tập trung hỏa lực bắn tạc đạn khiến cho địch quân trong vòng mấy trăm mét chết hơn phân nửa, số còn sống phục dưới đất không dám ngóc đầu dậy. Đại pháo đột nhiên đình chỉ xạ kích, hai kỵ binh đoán cách đó 500 mét nhanh chóng xuất động, đánh thẳng vào trận địa rộng mấy trăm mét vừa oanh tạc xong.
Đám 1600 kỵ binh này đã bị Dương Thu Trì tối qua mắng dạy cho một trận, chủ yếu là bắn loạn phí đạn. Lần này hắn vẫn phát cho mỗi người 20 phát, lệnh là phải đến gần 200 mét mới được bắn (vẫn còn nằm ngoài tầm tên và hỏa súng), và phải ngắm kỹ mới bắn.
Do đó, sau khi pháo hỏa dừng lại, địch quân chưa bị nổ chết hoảng loạn bò dậy, thì kỵ binh cầm lão sáo đồng đã đánh tới, súng nổ người ngã, thuẫn bài phòng mặt này được những không thể phòng mặt kia, nhanh chóng bị họ diệt gọn.
Vùng mấy trăm mét này đã phân trận trường xà ra làm hai, hai đoàn đội kỵ binh chia ra hai bên bắn tràn vào địch ở hai phía.