Mạnh Thiên Sở tiếp lấy nhìn, thấy đó là một khối bài bằng ngọc, ở mặt trước có khắc chữ nổi: "Khâm mệnh Vũ linh thiên sư Tả Giai Âm", phía dưới có một hàng chữ nhỏ: "Số 12", lật mặt sau thấy có khắc: "Phụng chỉ luyện đan, tất cả đều nghe theo lệnh, ai kháng lệnh khép tội kháng chỉ!"
Mạnh Thiên Sở lật tới lật lui nhìn: "Vũ linh thiên sư?" Trước mắt hắn hiện lên một vị pháp sư thân mặc đạo bào, tay cầm kiếm gỗ đào, mua may quay cuồng niệm chú trên pháp đàn, không khỏi tức cười: "Cô là thiên sư? Đạo hiệu Vũ Linh?"
"Đúng vậy, đạo hiệu của ta là Vũ Linh. Sư phụ của ta có đại hiệu Kim Linh. Thiên sư đều dùng chữ Linh đặt tên cho đạo hiệu, sao hả?" Tả Giai Âm thấy Mạnh Thiên Sở không có vẻ kính ngưỡng gì, ngược lại còn cười cười ra vẻ trào phúng, không khỏi lấy làm lạ.
Thiên Sư là một xưng hiệu mà đạo sĩ cực kỳ tôn sùng. Trong những năm Gia Tĩnh, đạo sĩ được tôn sùng rất dữ dội. Mọi điều này đều là do Gia Tĩnh hoàng đế sùng tín đạo giáo phi thường, rất thích thần tiên lão đạo, một lòng cầu trường sinh bất lão. Ông ta tìm kiếm phương sĩ, bí phương khắp nơi. Rất nhiều người có thể vì điều này mà một bước lên trời. Những văn nhân cũng soạn tả thanh từ cho Gia Tĩnh hoàng đế, ấy chính là những từ văn cầu khẩn thượng thiên theo nghi thức đạo giáo, thậm chí vì thế mà trở thành tể tướng, dân gian đương thời gọi là "Thanh Từ tể tướng". Nghiêm Tung là nhân vật đại biểu trong số này, rất giỏi về tả thanh từ, có tài về hiểu biết tâm tư của hoàng đế.
Gia Tĩnh hoàng đế mê tín đơn dược phương thuật, nên phái người đi khắp nơi hái linh chi, thường uống đơn dược do các đạo sĩ luyện chế. Ông ta còn một mực tin lời bọn đạo sĩ nói thân thể thiếu nữ là lô đỉnh luyện đơn "Thái âm bổ dương", thậm chí phải lấy máu huyết kinh nguyệt của các xử nữ mới lớn, trộn thêm thảo dược và các vật chất khoáng sản vào luyện thành một loại thuốc viên gọi là Hồng Duyên hoàn, nói là có thể uống vào để trường sinh bất lão (Kỳ thật đó là một loại xuân dược, uống vào tinh thần sảng khoái gấp trăm lần. Và cũng có thể đây là nguyên nhân mà một số loại thuốc kích dục (ma túy) ngày nay lấy tên là Viên hồng).
Bọn đạo sĩ nói luyện đơn cần sương sớm trong veo, Gia Tĩnh liền cho cung nữ dậy sớm đi thu sương sớm này. Công tác thu hứng sương sớm cực khổ phi thường, các cung nữ chịu không nổi, cuối cùng vào năm 1543 đã phát sinh một vụ "Cung biến Nhâm dần" (chung biến năm Nhân dần) do cung nữ phát động súyt chút nữa xiết cổ chết Gia Tĩnh, cho thấy Gia Tĩnh tín phụng đạo thuật đã lên đến mức độ nào.
Cũng có thể vì nguyên nhân này, Gia Tĩnh hoàng đế vô cùng xem trong bọn đạo sĩ. Sau khi tự thân tuyển chọn, ông ta nhậm mệnh cho hai mươi hai người ông ta cho là có đạo thuật chân chánh thành "Thiên sư", hai trăm người làm "pháp sư" phụng chỉ luyện đơn dược duyên niên ích thọ, trường sinh bất lão, và ban cho họ đặc quyền rất lớn.
Mạnh Thiên Sở đương nhiên không biết trong chuyện này còn có những nguyên nhân sâu xa, cho nên chỉ thảy thảy cái ngọc bài nói: "Đây là khối bài mà dưới Tri Vị quan ngày đó cô dùng để dọa cho tên Tiếu dịch trưởng đó sợ run cầm cập đó sao?"
"Đúng a." Tả Giai Âm hơi bất mãn với thần tình bông đùa cười cợt của Mạnh Thiên Sở, "Huynh biết không? Trong toàn quốc đạo sĩ hàng nghìn hàng vạn, nhưng được khâm mệnh chỉ có Thiên Sư và Pháp Sư. Hai loại người này thì trong cả nước chỉ có hai mươi hai người có tư cách cầm trong tay ngọc bài ngà voi tượng trưng cho Thiên Sư. Bằng cái ngọc bài này, không những là quan phủ nha môn, mà ngay cả Đông hán hay cẩm y vệ đều phải nghe theo lệnh! Nếu không, bị coi như kháng chỉ!"
"Ha ha, lợi hại vậy à? Kháng chỉ rồi thì bị xử phạt làm sao?"
"Chém cả nhà, tru di cửu tộc!"
"Oa! Hèn gì tên Tiếu dịch trưởng đó sợ cong đít lên như vậy!" Mạnh Thiên Sở vội thụ lại nụ cười, trả ngọc bài cho Tả Giai Âm: "Thì ra là Tả cô nương là Thiên sư. Tả cô nương tuổi đời còn trẻ như vậy, lại không phải là đạo cao, sao có thể làm Thiên sư được vậy?"
"Dựa vào nha phiến!" Thần tình của Tả Giai Âm có phần đắc ý, "Sư phụ ta lúc còn trẻ đã vân du nam phương, biết thương nhân ở hải ngoại có một thứ thuốc gọi là A phù dung có thể chống đau hữu hiệu. Lúc đó cha mẹ ta bị bệnh không chịu nổi, sư phụ liền trường đồ bạt thiệp đến nam phương, dùng trọng kim mua giống a phù dung từ tay thương nhân hải ngoại về trồng, luyện ra nha phiến. Sư phụ ta phát hiện ra nha phiến có công hiệu thần kỳ rồi, kinh quan nghiên cứu một thời gian dài, phối tạo với dược vật quý hiếm, cuối cùng luyện thành kim đan, phục dụng xong rồi có thể khiến tinh thần người ta tăng tiến trăm lần, duyên niên ích thọ."
Lời này khiến Mạnh Thiên Sở nhớ tới nha phiến còn có một danh xưng là "Phúc thọ cao", liền nhíu mày: "Nha phiến tuy có thể khiến người sản sinh cảm giác vui vẻ, nhưng sự nguy hại đối với thân thể rất lớn..."
Tả Giai Âm thở dài nói: "Đúng a, cái này ta cũng biết, do đó, kim đan luyện thành xong, ngoại trừ tiếng cống, chúng ta không tặng đi hay bán ra ngoài."
"Như vậy tốt, xem ra kim đan do các người tiến cống rất được hoàng thượng thưởng thức a?"
"Đúng, sư phụ ta thông qua một vi thiên sư giao hảo ở kinh thành dẫn tiến đem đơn dược tiến cống vào cung. Không lâu sau, hoàng thượng hạ chỉ phong sư phụ và tôi làm thiên sư, định kỳ tiến cống kim đan."
"Vậy sao," Mạnh Thiên Sở thầm nghĩ, nếu như chỉ dùng độc hại một mình hoàng thượng, không nguy hại cho dân chúng, thì hắn cũng chẳng cần quản làm gì. Hắn nhìn thấy trong vẻ cười của Tả Gia Âm cú chút gì đó ưu sầu, hiếu kỳ hỏi: "Tả cô nương làm thiên sư rồi, ngay cả Đông hán cũng sợ cô ba phần, còn có gì đáng để phiền não nữa?"
"Đối với sự khống chế kim đan, ta hiện giờ mới phát hiện không dễ dàng như đã nghĩ. Dùng nhiều rồi sẽ trúng độc tử vong, dùng ít thì không đạt hiệu quả. Bệnh đau đầu của cha ta càng lúc càng nặng, nhưng ta không dám tăng lượng thuốc, sợ trúng độc..."
Mạnh Thiên Sở nghĩ tới mấy thi thể kia: "Do đó cô dùng người khác để thử thuốc, đúng không?"
Tả Giai Âm lắc đầu: "Đây không phải là ý ta muốn, mà là chỉ ý của hoàng thượng."
"Vậy là ý gì?"
"Hoàng thượng chuyên môn tuyển một số người từ những phạm nhân bị tội tử hình cấp cho các thiên sư dùng để thử thuốc. Sau khi tin chắc là không có vấn đề gì rồi thì mới có thể tiến cống cho hoàng thượng. Những người đó đều do hoàng thượng điều đến để thử thuốc. Việc thử này chủ yếu là do sư phụ ta phụ trách, ta có lòng ngăn cản nhưng không còn cách nào."
Nghe nói thể, trong lòng Mạnh Thiên Sở dâng lên sự an ủi lạ kỳ, phảng phất như vừa quẳng bỏ tảng đá nặng trong tâm.
Chính vào lúc này, một nha hoàn hoảng hốt chạy vội vào báo: "Cô nương, không xong rồi, lão gia ngất đi rồi! Hiện giờ hơi thở đã yếu lắm, sắp không xong đến nơi rồi!"
Tả Giai Âm cả kinh thất sắc, không kịp chào hỏi gì Mạnh Thiên Sở, chạy vội ra khỏi phòng. Mạnh Thiên Sở đuổi theo hỏi: "Tả cô nương, ta đi thăm lệnh tôn một chút, được không?"
Tả Giai Âm cảm kích cười, gật gật đầu. Hai người đến một tòa nhà vườn nhỏ khác, trong vườn đầy nha hoàn và người hầu, đều hiện vẻ mặt kinh hoảng.
Hai người tiến vào cửa, bên trong là một gian nhà rộng rãi, ở phòng có giường lớn, bên giường có một nữ tử trung niên ngồi đang khóc sụt sùi. Đứng sau lưng bà ta là một nữ tử che mạng đen, cũng đang khóc tức tưởi. Một lão đạo râu tóc bạc phơ cũng đang ngồi bên giường, thần tình ngưng trọng, không ngừng lắc đầu.
Tả Giai Âm bước đến cạnh giường, hỏi lão đạo: "Sư phụ, cha con thế nào rồi?"
"Lượng thuốc quá lớn, sợ là chịu không thấu, e là không qua khỏi đêm nay..."
Tiếng khóc của hai nữ tử càng lớn hơn, các nha hoàng người làm ở bên cạnh cũng khóc theo.
Mạnh Thiên Sở bước tới hai bước nhìn lướt qua lão nhân ốm yếu đang nằm thiêm thiếp trên giường, nhớ lại vừa rồi Tả Giai Âm đồng ý tăng lượng thuốc nên dẫn tới tình huống trúng độc. Hắn thấy tình huống nguy cấp, không nghĩ ngợi gì vội bảo: "Mau tiến hành cho nôn, đem dược hoàn đã uống vào ói hết ra."
Lão đạo bấy giờ mới phát hiện là phía sau còn có một cậu thanh niên đang đứng, nhướn đôi mày bạc: "Ngươi là ai?"
Tả Giai Âm vội đáp: "Sư phụ, đây là hình danh sư gia Mạnh Thiên Sở của huyện Nhân Hòa, đặc biệt đến đây thăm cha con." Lại giới thiệu với Mạnh Thiên Sở: "Mạnh gia, vị này là sư phụ Kim Linh đạo trưởng của ta, còn đây là mẹ và mẹ vú của ta."
Mạnh Thiên Sở chỉ mỉm cười gật gật đầu, không còn quan tâm đến việc khách khí gì nữa, bước thêm một bước vén mi mắt của Tả lão gia tử lên xem, phát hiện con ngươi trong mắt đã co lại nhỏ như đầu chăm, liền dùng tay hưa hưa trước mắt ông ta, thấy con ngươi không phản ứng gì, liền nói: "Lão gia tử uống thuốc quá nhiều, đã trúng độc nặng, cần phải lập tức cho nôn! Nếu không sẽ chết đấy!"
Lão đạo hừ một tiếng: "Cho nôn? Nôn xong rồi cơn đau đầu kịch liệt cũng lấy mạng của ông ấy!"
Điểm này Mạnh Thiên Sở đương nhiên biết, đoán là Tả lão gia tử có thể là bị khối u trong não, chứng đau đón kịch liệt đó không phải là thứ mà người có thể chịu nỗi, sẽ dẫn tới vì đau đớn quá mà choáng rồi tử vong. Nhưng hắn hiện giờ không quan tâm đến chuyện đau đầu vội, kêu lên: "Cho nôn trước! Chứng đau đầu của ông ta ta có cách chữa!"
Lão đạo đó nhìn lên nhìn xuống Mạnh Thiên Sở, bán tín bán nghi: "Ngươi biết y thuật?"
Mạnh Thiên Sở gấp lên, nói vội: "Trước hết khoan hỏi việc khác vội, mọi người cần phải tin ta, đem độc dược cho nôn ra hết, giải cái nguy nan trước mắt rồi tính sau, chuyện chống cơn đau ta có biện pháp!"
Tả Giai Âm nói: "Sư phụ, Mạnh sư gia biết tập tính của A phù dung, con tin là huynh ấy có biện pháp!"
"Vậy à?" Lão đạo mày trắng dường như cố nhìn Mạnh Thiên Sở cho rõ hơn, "Ngươi biết A phù dung?"
"Ông trời ơi, a phù dung còn gọi là nha phiến, thuốc phiện, ma túy, là một loại cây cỏ họ anh túc, mùa hè nở hoa, màu hồng tím và trắng. Quả hình cầu hoặc hình thoi. Mầm nhỏ mà nhiều. Quả chưa chín của anh túc có thể dùng đao bén cắt phá vỏ, chờ chất dịch chảy ra khô lại lấy đi, hong khô thì thành nha phiến sống. Nha phiến có tác dụng trấn định tinh thần, chống đau chủ yếu là do chất moóc phin bên trong nó. Các người đừng có hỏi nữa được không? Cứu người trước gấp hơn!"
Mạnh Thiên Sở nói một hơi không kịp thở, chẳng cần biết họ nghe có hiểu không, lại bổ sung thêm: "Ta biết các ngừơi trồng đầy anh túc ở Giai Âm sơn trang, ta cũng biết làm cách nào để phát huy tác dụng giảm đau của nha phiến, do đó ta có biện pháp giúp Tả lão gia tử chống đau. Chúng ta mau kích nôn cho ông ta ói hết thuốc trong bụng ra, giải độc!"
Nha phiến không được mấy người biết ở Minh triều. Mạnh Thiên Sở nếu như biết, khẳng định là hiểu rõ loại này. Lão đạo nghe hắn sổ ra một tràng, tức thời tin ngay, gọi người nhà bưng một bồn nước ấm lên, móc từ trong người ra một bình thuốc nhỏ, trút một ít phấn màu hồng ra tay bóp nhuyễn bỏ vào miệng Tả lão gia tử, dặn người để hé miệng Tả lão gia tử ra, dùng cái bồn nước đổ vào miệng, xong bảo đem bồn ói tới.
Chốc lát sau, Tả lão gia tử tỉnh lại, bị lật nghiêng người qua ói tồ tồ xuống bồn.
Sau khi nôn xong, ông ta bị đè đổ nước tiếp, đổ xong lại ói, liên tục như vậy cho đến khi hết sạch một bồn nước ấm to rồi mới ngưng.
Tả lão gia tử ói hết thứ trong bụng ra, người cũng đã tỉnh, nhưng tiếp theo đó lại ôm đầu lăn lộn trên giường, gào thảm thiết điếc cả tai.
Hai phu nhân vội vã ở bên an ủi ông ta, và cùng đồng thời đưa mắt dõi trông Mạnh Thiên Sở.
Vừa rồi trong quá trình cho móc nôn, Mạnh Thiên Sở đã nhín thời gian vẽ một bản phác thảo, hỏi Tả Giai Âm: "Trong phủ có thợ rèn không?"
Thời cổ đại, mỗi đại hộ đều có thợ rèn cho riêng mình. Tả gia đương nhiên không ngoại lệ. Tả Giai Âm vội bảo quản gia đi gọi thợ rèn tới, Mạnh Thiên Sở gọi thợ rèn qua một bên, đưa bản phác thảo ra giảng giải kỹ, thợ rèn bèn cầm nó chạy đi ngay.
Tả lão gia tử ói mửa tỉnh dậy xong, đầu đau như búa bổ, kêu la điếc cả tai, Kim Linh đạo trưởng liền hỏi: "Mạnh sư gia, hiện giờ nên làm thế nào?"
Mạnh Thiên Sở đáp: "Đã chuẩn bị sẳn sàng rồi, vừa rồi tôi đã vẽ ra một bức phác thảo, cho thợ rèn lập tức đi làm một dụng cụ. Sử dụng dụng cụ này có thể nhanh chóng giảm đau."
Thần kỳ như vậy sao? Kim Linh lão đạo cùng mọi người bán tín bạn nghi. Mạnh Thiên Sở liền mượn của Tả Giải Âm vài viên nha phiến, gọi người hầu tìm tới một cái nồi nhỏ, dùng lửa nhỏ sắc thành một cục nha phiến dạng cao.
Đến lúc này thì tên thợ rèn đã mang một cái ống dài một xích tới, chạy nhanh vào khom người đưa cho Mạnh Thiên Sở, thì ra là một tẩu chuyên môn dùng để hút thuốc phiện.
Mạnh Thiên Sở tiếp lấy nhìn kỹ, thấy phù hợp với yêu cầu, liền gật gật đầu, đem nha phiến đã nấu trong nồi phếch lên thẻ tre đốt kề vào tẩu hút thuốc phiện: "Ông cho Tả lão gia tử hút khói này." Nói xong chỉ cách hút thuốc, lão đạo y lời làm theo.
Tả lão gia tử dường như tín nhiệm lão đạo này phi thường, nhịn cơn đau đớn bắt đầu hút nha phiến. Một lát sau, cơn đau đầu của ông ta từ từ bớt. Rồi thêm một lát nữa, Tả lão gia tử chẳng còn đau gì. Ông ta đặt dọc tẩu sang một bên, nằm thẳng ra giường nhắm mắt lại, thần tình vô cùng sung sướng.
Lão đạo và mọi người bấy giờ mới thở dài một hơi. Tả Giai Âm cao hứng phi thường, luôn miệng cảm ơn, hiếu kỳ cầm cái dọc tẩu lên nhìn nhìn và hỏi: "Đây là cái gì? Sao mà có công hiệu thần kỳ như vậy?"
Ở giữa thời Minh, thuốc lá còn chưa truyền vào Trung Quốc, do đó còn chưa có dụng cụ chuyên môn hút thuốc, cho nên họ đương nhiên không nhận ra. Cách dùng dọc tẩu để hút thuốc phiện chỉ xuất hiện ở thời kỳ Mạt Minh khi thuốc lá truyền vào Trung Quốc. Do đó, Mạnh Thiên Sở cho thợ thủ công làm cái tẩu hút này không ai biết được.
Trước đây, người cổ chủ yếu dùng nha phiến sống làm thành những viên nhỏ ăn uống trực tiếp vào bụng. Làm như vậy thì thời gian có tác dụng rất dài, nhưng dược hiệu không đạt được gia trị tối cao. Để đạt được hiệu quả chống đau như ý họ thường phải dùng một lượng thuốc lớn, từ đó gây sốc thuốc, ngộ độc cấp tính. Trong khi đó, dùng hình thức hít khói có thể sản sinh hiệu quả nhanh hơn, và người hút có thể căn cứ vào cảm thụ của thân thể mà quyết định lượng hút vào nhiều ít. Và thường là không xuất hiện tình huống hút nhiều quá rồi gây trúng độc.
Tả Giai Âm để giúp Tả lão gia tử giảm đau, đã cho ông ta dùng viên nha phiến thời gian dài, do đó sự chống chịu với nha phiến ngày càng tăng, hiệu quả ngày càng giảm. Trong khi đó phương pháp uống vào có tác dụng chậm khiến cho lão đạo và Tả Giai Âm không khống chế được lượng thuốc hiệu quả, kết quả là khiến Tả lão gia tử bị trúng độc cấp tính. Sau khi cho Tả lão gia tử nôn để giải độc, thì đầu óc của ông ta lại trở đau, khiến ông ta ôm đầu kêu trời không thấu. Và Mạnh Thiên Sở gọi thợ thủ công làm một ống tẩu cho Tả lão gia tử hút nha phiến, tốc độ tạo ra công hiệu nhanh, hơn nữa lại là dùng lần đầu, nên càng đạt hiệu quả như ý.
Mạnh Thiên Sở lật tới lật lui nhìn: "Vũ linh thiên sư?" Trước mắt hắn hiện lên một vị pháp sư thân mặc đạo bào, tay cầm kiếm gỗ đào, mua may quay cuồng niệm chú trên pháp đàn, không khỏi tức cười: "Cô là thiên sư? Đạo hiệu Vũ Linh?"
"Đúng vậy, đạo hiệu của ta là Vũ Linh. Sư phụ của ta có đại hiệu Kim Linh. Thiên sư đều dùng chữ Linh đặt tên cho đạo hiệu, sao hả?" Tả Giai Âm thấy Mạnh Thiên Sở không có vẻ kính ngưỡng gì, ngược lại còn cười cười ra vẻ trào phúng, không khỏi lấy làm lạ.
Thiên Sư là một xưng hiệu mà đạo sĩ cực kỳ tôn sùng. Trong những năm Gia Tĩnh, đạo sĩ được tôn sùng rất dữ dội. Mọi điều này đều là do Gia Tĩnh hoàng đế sùng tín đạo giáo phi thường, rất thích thần tiên lão đạo, một lòng cầu trường sinh bất lão. Ông ta tìm kiếm phương sĩ, bí phương khắp nơi. Rất nhiều người có thể vì điều này mà một bước lên trời. Những văn nhân cũng soạn tả thanh từ cho Gia Tĩnh hoàng đế, ấy chính là những từ văn cầu khẩn thượng thiên theo nghi thức đạo giáo, thậm chí vì thế mà trở thành tể tướng, dân gian đương thời gọi là "Thanh Từ tể tướng". Nghiêm Tung là nhân vật đại biểu trong số này, rất giỏi về tả thanh từ, có tài về hiểu biết tâm tư của hoàng đế.
Gia Tĩnh hoàng đế mê tín đơn dược phương thuật, nên phái người đi khắp nơi hái linh chi, thường uống đơn dược do các đạo sĩ luyện chế. Ông ta còn một mực tin lời bọn đạo sĩ nói thân thể thiếu nữ là lô đỉnh luyện đơn "Thái âm bổ dương", thậm chí phải lấy máu huyết kinh nguyệt của các xử nữ mới lớn, trộn thêm thảo dược và các vật chất khoáng sản vào luyện thành một loại thuốc viên gọi là Hồng Duyên hoàn, nói là có thể uống vào để trường sinh bất lão (Kỳ thật đó là một loại xuân dược, uống vào tinh thần sảng khoái gấp trăm lần. Và cũng có thể đây là nguyên nhân mà một số loại thuốc kích dục (ma túy) ngày nay lấy tên là Viên hồng).
Bọn đạo sĩ nói luyện đơn cần sương sớm trong veo, Gia Tĩnh liền cho cung nữ dậy sớm đi thu sương sớm này. Công tác thu hứng sương sớm cực khổ phi thường, các cung nữ chịu không nổi, cuối cùng vào năm 1543 đã phát sinh một vụ "Cung biến Nhâm dần" (chung biến năm Nhân dần) do cung nữ phát động súyt chút nữa xiết cổ chết Gia Tĩnh, cho thấy Gia Tĩnh tín phụng đạo thuật đã lên đến mức độ nào.
Cũng có thể vì nguyên nhân này, Gia Tĩnh hoàng đế vô cùng xem trong bọn đạo sĩ. Sau khi tự thân tuyển chọn, ông ta nhậm mệnh cho hai mươi hai người ông ta cho là có đạo thuật chân chánh thành "Thiên sư", hai trăm người làm "pháp sư" phụng chỉ luyện đơn dược duyên niên ích thọ, trường sinh bất lão, và ban cho họ đặc quyền rất lớn.
Mạnh Thiên Sở đương nhiên không biết trong chuyện này còn có những nguyên nhân sâu xa, cho nên chỉ thảy thảy cái ngọc bài nói: "Đây là khối bài mà dưới Tri Vị quan ngày đó cô dùng để dọa cho tên Tiếu dịch trưởng đó sợ run cầm cập đó sao?"
"Đúng a." Tả Giai Âm hơi bất mãn với thần tình bông đùa cười cợt của Mạnh Thiên Sở, "Huynh biết không? Trong toàn quốc đạo sĩ hàng nghìn hàng vạn, nhưng được khâm mệnh chỉ có Thiên Sư và Pháp Sư. Hai loại người này thì trong cả nước chỉ có hai mươi hai người có tư cách cầm trong tay ngọc bài ngà voi tượng trưng cho Thiên Sư. Bằng cái ngọc bài này, không những là quan phủ nha môn, mà ngay cả Đông hán hay cẩm y vệ đều phải nghe theo lệnh! Nếu không, bị coi như kháng chỉ!"
"Ha ha, lợi hại vậy à? Kháng chỉ rồi thì bị xử phạt làm sao?"
"Chém cả nhà, tru di cửu tộc!"
"Oa! Hèn gì tên Tiếu dịch trưởng đó sợ cong đít lên như vậy!" Mạnh Thiên Sở vội thụ lại nụ cười, trả ngọc bài cho Tả Giai Âm: "Thì ra là Tả cô nương là Thiên sư. Tả cô nương tuổi đời còn trẻ như vậy, lại không phải là đạo cao, sao có thể làm Thiên sư được vậy?"
"Dựa vào nha phiến!" Thần tình của Tả Giai Âm có phần đắc ý, "Sư phụ ta lúc còn trẻ đã vân du nam phương, biết thương nhân ở hải ngoại có một thứ thuốc gọi là A phù dung có thể chống đau hữu hiệu. Lúc đó cha mẹ ta bị bệnh không chịu nổi, sư phụ liền trường đồ bạt thiệp đến nam phương, dùng trọng kim mua giống a phù dung từ tay thương nhân hải ngoại về trồng, luyện ra nha phiến. Sư phụ ta phát hiện ra nha phiến có công hiệu thần kỳ rồi, kinh quan nghiên cứu một thời gian dài, phối tạo với dược vật quý hiếm, cuối cùng luyện thành kim đan, phục dụng xong rồi có thể khiến tinh thần người ta tăng tiến trăm lần, duyên niên ích thọ."
Lời này khiến Mạnh Thiên Sở nhớ tới nha phiến còn có một danh xưng là "Phúc thọ cao", liền nhíu mày: "Nha phiến tuy có thể khiến người sản sinh cảm giác vui vẻ, nhưng sự nguy hại đối với thân thể rất lớn..."
Tả Giai Âm thở dài nói: "Đúng a, cái này ta cũng biết, do đó, kim đan luyện thành xong, ngoại trừ tiếng cống, chúng ta không tặng đi hay bán ra ngoài."
"Như vậy tốt, xem ra kim đan do các người tiến cống rất được hoàng thượng thưởng thức a?"
"Đúng, sư phụ ta thông qua một vi thiên sư giao hảo ở kinh thành dẫn tiến đem đơn dược tiến cống vào cung. Không lâu sau, hoàng thượng hạ chỉ phong sư phụ và tôi làm thiên sư, định kỳ tiến cống kim đan."
"Vậy sao," Mạnh Thiên Sở thầm nghĩ, nếu như chỉ dùng độc hại một mình hoàng thượng, không nguy hại cho dân chúng, thì hắn cũng chẳng cần quản làm gì. Hắn nhìn thấy trong vẻ cười của Tả Gia Âm cú chút gì đó ưu sầu, hiếu kỳ hỏi: "Tả cô nương làm thiên sư rồi, ngay cả Đông hán cũng sợ cô ba phần, còn có gì đáng để phiền não nữa?"
"Đối với sự khống chế kim đan, ta hiện giờ mới phát hiện không dễ dàng như đã nghĩ. Dùng nhiều rồi sẽ trúng độc tử vong, dùng ít thì không đạt hiệu quả. Bệnh đau đầu của cha ta càng lúc càng nặng, nhưng ta không dám tăng lượng thuốc, sợ trúng độc..."
Mạnh Thiên Sở nghĩ tới mấy thi thể kia: "Do đó cô dùng người khác để thử thuốc, đúng không?"
Tả Giai Âm lắc đầu: "Đây không phải là ý ta muốn, mà là chỉ ý của hoàng thượng."
"Vậy là ý gì?"
"Hoàng thượng chuyên môn tuyển một số người từ những phạm nhân bị tội tử hình cấp cho các thiên sư dùng để thử thuốc. Sau khi tin chắc là không có vấn đề gì rồi thì mới có thể tiến cống cho hoàng thượng. Những người đó đều do hoàng thượng điều đến để thử thuốc. Việc thử này chủ yếu là do sư phụ ta phụ trách, ta có lòng ngăn cản nhưng không còn cách nào."
Nghe nói thể, trong lòng Mạnh Thiên Sở dâng lên sự an ủi lạ kỳ, phảng phất như vừa quẳng bỏ tảng đá nặng trong tâm.
Chính vào lúc này, một nha hoàn hoảng hốt chạy vội vào báo: "Cô nương, không xong rồi, lão gia ngất đi rồi! Hiện giờ hơi thở đã yếu lắm, sắp không xong đến nơi rồi!"
Tả Giai Âm cả kinh thất sắc, không kịp chào hỏi gì Mạnh Thiên Sở, chạy vội ra khỏi phòng. Mạnh Thiên Sở đuổi theo hỏi: "Tả cô nương, ta đi thăm lệnh tôn một chút, được không?"
Tả Giai Âm cảm kích cười, gật gật đầu. Hai người đến một tòa nhà vườn nhỏ khác, trong vườn đầy nha hoàn và người hầu, đều hiện vẻ mặt kinh hoảng.
Hai người tiến vào cửa, bên trong là một gian nhà rộng rãi, ở phòng có giường lớn, bên giường có một nữ tử trung niên ngồi đang khóc sụt sùi. Đứng sau lưng bà ta là một nữ tử che mạng đen, cũng đang khóc tức tưởi. Một lão đạo râu tóc bạc phơ cũng đang ngồi bên giường, thần tình ngưng trọng, không ngừng lắc đầu.
Tả Giai Âm bước đến cạnh giường, hỏi lão đạo: "Sư phụ, cha con thế nào rồi?"
"Lượng thuốc quá lớn, sợ là chịu không thấu, e là không qua khỏi đêm nay..."
Tiếng khóc của hai nữ tử càng lớn hơn, các nha hoàng người làm ở bên cạnh cũng khóc theo.
Mạnh Thiên Sở bước tới hai bước nhìn lướt qua lão nhân ốm yếu đang nằm thiêm thiếp trên giường, nhớ lại vừa rồi Tả Giai Âm đồng ý tăng lượng thuốc nên dẫn tới tình huống trúng độc. Hắn thấy tình huống nguy cấp, không nghĩ ngợi gì vội bảo: "Mau tiến hành cho nôn, đem dược hoàn đã uống vào ói hết ra."
Lão đạo bấy giờ mới phát hiện là phía sau còn có một cậu thanh niên đang đứng, nhướn đôi mày bạc: "Ngươi là ai?"
Tả Giai Âm vội đáp: "Sư phụ, đây là hình danh sư gia Mạnh Thiên Sở của huyện Nhân Hòa, đặc biệt đến đây thăm cha con." Lại giới thiệu với Mạnh Thiên Sở: "Mạnh gia, vị này là sư phụ Kim Linh đạo trưởng của ta, còn đây là mẹ và mẹ vú của ta."
Mạnh Thiên Sở chỉ mỉm cười gật gật đầu, không còn quan tâm đến việc khách khí gì nữa, bước thêm một bước vén mi mắt của Tả lão gia tử lên xem, phát hiện con ngươi trong mắt đã co lại nhỏ như đầu chăm, liền dùng tay hưa hưa trước mắt ông ta, thấy con ngươi không phản ứng gì, liền nói: "Lão gia tử uống thuốc quá nhiều, đã trúng độc nặng, cần phải lập tức cho nôn! Nếu không sẽ chết đấy!"
Lão đạo hừ một tiếng: "Cho nôn? Nôn xong rồi cơn đau đầu kịch liệt cũng lấy mạng của ông ấy!"
Điểm này Mạnh Thiên Sở đương nhiên biết, đoán là Tả lão gia tử có thể là bị khối u trong não, chứng đau đón kịch liệt đó không phải là thứ mà người có thể chịu nỗi, sẽ dẫn tới vì đau đớn quá mà choáng rồi tử vong. Nhưng hắn hiện giờ không quan tâm đến chuyện đau đầu vội, kêu lên: "Cho nôn trước! Chứng đau đầu của ông ta ta có cách chữa!"
Lão đạo đó nhìn lên nhìn xuống Mạnh Thiên Sở, bán tín bán nghi: "Ngươi biết y thuật?"
Mạnh Thiên Sở gấp lên, nói vội: "Trước hết khoan hỏi việc khác vội, mọi người cần phải tin ta, đem độc dược cho nôn ra hết, giải cái nguy nan trước mắt rồi tính sau, chuyện chống cơn đau ta có biện pháp!"
Tả Giai Âm nói: "Sư phụ, Mạnh sư gia biết tập tính của A phù dung, con tin là huynh ấy có biện pháp!"
"Vậy à?" Lão đạo mày trắng dường như cố nhìn Mạnh Thiên Sở cho rõ hơn, "Ngươi biết A phù dung?"
"Ông trời ơi, a phù dung còn gọi là nha phiến, thuốc phiện, ma túy, là một loại cây cỏ họ anh túc, mùa hè nở hoa, màu hồng tím và trắng. Quả hình cầu hoặc hình thoi. Mầm nhỏ mà nhiều. Quả chưa chín của anh túc có thể dùng đao bén cắt phá vỏ, chờ chất dịch chảy ra khô lại lấy đi, hong khô thì thành nha phiến sống. Nha phiến có tác dụng trấn định tinh thần, chống đau chủ yếu là do chất moóc phin bên trong nó. Các người đừng có hỏi nữa được không? Cứu người trước gấp hơn!"
Mạnh Thiên Sở nói một hơi không kịp thở, chẳng cần biết họ nghe có hiểu không, lại bổ sung thêm: "Ta biết các ngừơi trồng đầy anh túc ở Giai Âm sơn trang, ta cũng biết làm cách nào để phát huy tác dụng giảm đau của nha phiến, do đó ta có biện pháp giúp Tả lão gia tử chống đau. Chúng ta mau kích nôn cho ông ta ói hết thuốc trong bụng ra, giải độc!"
Nha phiến không được mấy người biết ở Minh triều. Mạnh Thiên Sở nếu như biết, khẳng định là hiểu rõ loại này. Lão đạo nghe hắn sổ ra một tràng, tức thời tin ngay, gọi người nhà bưng một bồn nước ấm lên, móc từ trong người ra một bình thuốc nhỏ, trút một ít phấn màu hồng ra tay bóp nhuyễn bỏ vào miệng Tả lão gia tử, dặn người để hé miệng Tả lão gia tử ra, dùng cái bồn nước đổ vào miệng, xong bảo đem bồn ói tới.
Chốc lát sau, Tả lão gia tử tỉnh lại, bị lật nghiêng người qua ói tồ tồ xuống bồn.
Sau khi nôn xong, ông ta bị đè đổ nước tiếp, đổ xong lại ói, liên tục như vậy cho đến khi hết sạch một bồn nước ấm to rồi mới ngưng.
Tả lão gia tử ói hết thứ trong bụng ra, người cũng đã tỉnh, nhưng tiếp theo đó lại ôm đầu lăn lộn trên giường, gào thảm thiết điếc cả tai.
Hai phu nhân vội vã ở bên an ủi ông ta, và cùng đồng thời đưa mắt dõi trông Mạnh Thiên Sở.
Vừa rồi trong quá trình cho móc nôn, Mạnh Thiên Sở đã nhín thời gian vẽ một bản phác thảo, hỏi Tả Giai Âm: "Trong phủ có thợ rèn không?"
Thời cổ đại, mỗi đại hộ đều có thợ rèn cho riêng mình. Tả gia đương nhiên không ngoại lệ. Tả Giai Âm vội bảo quản gia đi gọi thợ rèn tới, Mạnh Thiên Sở gọi thợ rèn qua một bên, đưa bản phác thảo ra giảng giải kỹ, thợ rèn bèn cầm nó chạy đi ngay.
Tả lão gia tử ói mửa tỉnh dậy xong, đầu đau như búa bổ, kêu la điếc cả tai, Kim Linh đạo trưởng liền hỏi: "Mạnh sư gia, hiện giờ nên làm thế nào?"
Mạnh Thiên Sở đáp: "Đã chuẩn bị sẳn sàng rồi, vừa rồi tôi đã vẽ ra một bức phác thảo, cho thợ rèn lập tức đi làm một dụng cụ. Sử dụng dụng cụ này có thể nhanh chóng giảm đau."
Thần kỳ như vậy sao? Kim Linh lão đạo cùng mọi người bán tín bạn nghi. Mạnh Thiên Sở liền mượn của Tả Giải Âm vài viên nha phiến, gọi người hầu tìm tới một cái nồi nhỏ, dùng lửa nhỏ sắc thành một cục nha phiến dạng cao.
Đến lúc này thì tên thợ rèn đã mang một cái ống dài một xích tới, chạy nhanh vào khom người đưa cho Mạnh Thiên Sở, thì ra là một tẩu chuyên môn dùng để hút thuốc phiện.
Mạnh Thiên Sở tiếp lấy nhìn kỹ, thấy phù hợp với yêu cầu, liền gật gật đầu, đem nha phiến đã nấu trong nồi phếch lên thẻ tre đốt kề vào tẩu hút thuốc phiện: "Ông cho Tả lão gia tử hút khói này." Nói xong chỉ cách hút thuốc, lão đạo y lời làm theo.
Tả lão gia tử dường như tín nhiệm lão đạo này phi thường, nhịn cơn đau đớn bắt đầu hút nha phiến. Một lát sau, cơn đau đầu của ông ta từ từ bớt. Rồi thêm một lát nữa, Tả lão gia tử chẳng còn đau gì. Ông ta đặt dọc tẩu sang một bên, nằm thẳng ra giường nhắm mắt lại, thần tình vô cùng sung sướng.
Lão đạo và mọi người bấy giờ mới thở dài một hơi. Tả Giai Âm cao hứng phi thường, luôn miệng cảm ơn, hiếu kỳ cầm cái dọc tẩu lên nhìn nhìn và hỏi: "Đây là cái gì? Sao mà có công hiệu thần kỳ như vậy?"
Ở giữa thời Minh, thuốc lá còn chưa truyền vào Trung Quốc, do đó còn chưa có dụng cụ chuyên môn hút thuốc, cho nên họ đương nhiên không nhận ra. Cách dùng dọc tẩu để hút thuốc phiện chỉ xuất hiện ở thời kỳ Mạt Minh khi thuốc lá truyền vào Trung Quốc. Do đó, Mạnh Thiên Sở cho thợ thủ công làm cái tẩu hút này không ai biết được.
Trước đây, người cổ chủ yếu dùng nha phiến sống làm thành những viên nhỏ ăn uống trực tiếp vào bụng. Làm như vậy thì thời gian có tác dụng rất dài, nhưng dược hiệu không đạt được gia trị tối cao. Để đạt được hiệu quả chống đau như ý họ thường phải dùng một lượng thuốc lớn, từ đó gây sốc thuốc, ngộ độc cấp tính. Trong khi đó, dùng hình thức hít khói có thể sản sinh hiệu quả nhanh hơn, và người hút có thể căn cứ vào cảm thụ của thân thể mà quyết định lượng hút vào nhiều ít. Và thường là không xuất hiện tình huống hút nhiều quá rồi gây trúng độc.
Tả Giai Âm để giúp Tả lão gia tử giảm đau, đã cho ông ta dùng viên nha phiến thời gian dài, do đó sự chống chịu với nha phiến ngày càng tăng, hiệu quả ngày càng giảm. Trong khi đó phương pháp uống vào có tác dụng chậm khiến cho lão đạo và Tả Giai Âm không khống chế được lượng thuốc hiệu quả, kết quả là khiến Tả lão gia tử bị trúng độc cấp tính. Sau khi cho Tả lão gia tử nôn để giải độc, thì đầu óc của ông ta lại trở đau, khiến ông ta ôm đầu kêu trời không thấu. Và Mạnh Thiên Sở gọi thợ thủ công làm một ống tẩu cho Tả lão gia tử hút nha phiến, tốc độ tạo ra công hiệu nhanh, hơn nữa lại là dùng lần đầu, nên càng đạt hiệu quả như ý.