Khi vết thương trên người Allan đã dần khá lên, phần da gần vết thương liền tróc ra, ngứa vô cùng, anh đòi dứt đám da đó và cạy vảy vết thương cho đỡ ngứa. Anh không với được ra sau lưng, Ngải Mễ liền bảo anh nằm xuống để cô làm giúp. Anh luôn bảo cô dứt mạnh, nói như thế mới đỡ ngứa, nhưng cứ dứt ra là cô lại nhìn thấy phần da non ở dưới nên không dám dứt, chỉ xoa nhẹ nhàng lên đó. Allan liền nhắm mắt lại, vẻ rất tận hưởng. Cô làm vậy được một lúc thì anh đã ngủ thiếp đi.
Trong lúc ngủ, anh thường nằm nghiêng, hai chân co lên, hai tay rụt lại đặt lên hai đầu gối. Ngải Mễ đọc trong cuốn sách nào đó nói rằng, những người từ đáy lòng sợ bóng tối, sợ cô độc nên mới có tư thế ngủ như trẻ sơ sinh, tựa như đang nằm trong vòng tay an toàn, ấm áp của người mẹ.
Cô đoán tư thế ngủ này của anh hình thành trong đồn thu thẩm. Chắc chắn ban ngày anh rất cứng rắn, nhưng đêm đến là anh nằm co ro như thế trên chiếc giường vừa lạnh vừa cứng, trong mơ tìm kiếm vòng tay ấm áp. Đó là những đêm tối đáng sợ biết bao, anh mất đi tự do, không biết mình sẽ bị ngồi tù oan trong bao lâu, cũng không biết mình có chết đi mà không được minh oan hay không, chắc chắn nỗi cô đơn và sự tuyệt vọng đã gặm nhấm trái tim anh.
Nghĩ đến đây là cô không sao cầm được nước mắt, trong lòng trào lên bản năng yêu thương của người mẹ. Có lúc cô ngồi trên giường, đặt đầu anh lên đùi cô, ngắm anh ngủ say trong giấc nồng, có lúc cô nằm đối mặt với anh, để anh ngủ ngon lành trong lòng cô như một đứa trẻ.
Hồi mới được thả, dường như anh rất nghiện ngủ. Cô không biết vì ở trong đó anh ngủ không đủ hay là do anh thiếu máu hoặc bị đánh nhiều nên não bị ảnh hưởng. Hỏi anh thì anh bảo chắc chắn là do ở trong đó thiếu ngủ, bọn họ thường xuyên bắt anh lao động ban ngày, tối đến tra khảo, dù có ngủ thì cũng không được ngủ ngon. Giờ ra ngoài rồi, có thể ngủ một cách tự do tự tại, yên tâm thoải mái, thế nên cứ đặt mình xuống giường là ngủ ngay được.
Cô biết những ký ức đáng sợ kia vẫn đang đeo bám anh, vì thỉnh thoảng anh choàng tỉnh, tóc ướt sũng mồ hôi, ánh mắt ngơ ngác, tựa như không biết mình đang ở chốn nào. Nhưng đến khi cô hỏi anh mơ gì vậy, thì anh luôn trả lời “không có gì”, thấy cô không tin, anh liền bảo mơ thấy mấy chuyện hồi nhỏ, đánh nhau với bạn. Cô biết anh đang nói dối, chắc chắn là anh không muốn kể những tình tiết đáng sợ đó, sợ cô cũng gặp ác mộng.
Nhiều lúc cô chỉ mong anh cứ ngủ mãi mãi như thế này trong lòng cô, vì khi ngủ, nhìn anh như một đứa trẻ, anh có nỗi sợ hãi, mệt mỏi, yếu đuối của riêng mình và cần cô bảo vệ, quan tâm, cần tình yêu và sự chăm sóc của cô, cô cảm thấy như thế mình sẽ chiếm một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống của anh. Nhưng đến khi tỉnh giấc, cô lại cảm thấy anh mạnh mẽ vô cùng, không còn là đứa trẻ cần cô bảo vệ nữa.
Cô hỏi anh có phải vì bị giam ở đồn thu thẩm nên mới hình thành tư thế ngủ đó không, anh bảo không phải, vì có rất nhiều người thích nằm nghiêng. Bà nội anh nói, một người phải “đứng như tùng, ngồi như chuông, ngủ như cung, đi như phong”, anh nằm như thế tức là “ngủ như cung” (chữ cung “弓”). Anh sợ cô không tin bèn nói Jane cũng biết anh có tư thế ngủ này, chứng tỏ trước khi bị bắt vào đồn thu thẩm, anh đã ngủ như thế.
Cô tò mò hỏi: “Sao chị ấy lại biết tư thế ngủ của anh được?”
Allan không chịu trả lời, có vẻ như anh rất hối hận vì đã nói ra câu đó. Không chống đỡ được trước sự tra hỏi của cô, anh đành nói: “Trong nhật ký, cô ấy nói là qua cửa sổ, cô ấy nhìn thấy anh ngủ như thế…”
Nghe xong Ngải Mễ thấy rất sợ, nửa đêm tỉnh giấc, cô không bao giờ dám nhìn ra cửa sổ, sợ lại thấy Jane đứng ở đó, thế nên cô luôn đóng cửa sổ và kéo rèm cửa lại.
Trước đây cô không tin vào quỷ hồn, nhưng sau chuyện của Jane, cô bắt đầu tin vào những điều này, cứ có cảm giác như Jane đang lởn vởn ở đâu đó. Người đang sống đã chết bao giờ đâu, làm sao có thể khẳng định sau khi chết, linh hồn không lang thang phiêu bạt trên thế gian này? Đến khi chết rồi lại phát hiện ra có linh hồn thật, nhưng lại không có cách nào để nói cho người đang sống biết. Có lẽ là hai thế giới âm dương, chỉ có một số ít người có thể trao đổi, giao lưu, chỉ có rất ít người nhìn thấy quỷ hồn, nhưng mọi người đều coi những điều mà số ít người đó nói là chuyện mê tín dị đoan và phủ định.
Cô nghĩ Jane có hàng nghìn lý do để hận cô. Jane yêu Allan bao nhiêu năm như thế, mặc dù ngày trước từng có ý định tự tử nhưng cũng chỉ là viết trong nhật ký mà thôi. Nhưng khi phát hiện ra mối quan hệ của cô và Allan, hai tháng sau, Jane đã hành động, chắc chắn là vì cô đã khiến Jane tuyệt vọng hoàn toàn. May mà cô không phải là người hay tự trách mình, thậm chí có thể nói là người thích trách người khác, xảy ra chuyện gì đó, kể cả không trách người khác thì cũng vẫn có thể tìm ra vài lý do để biện minh cho mình, nếu không thật sự không biết sẽ khổ sở thế nào.
Cô phát hiện ra Allan luôn mở cửa sổ trong phòng, rèm cửa cũng luôn mở, cô đoán là anh mở rèm cửa cho Jane, để Jane luôn nhìn thấy anh qua cửa sổ, như thế Jane có thể yên tâm về đi ngủ. Nhưng nếu hỏi anh, anh lại nói là vì trời nóng, mở rèm cửa cho thoáng, cô không muốn vạch trần lời nói dối của anh nhưng trong lòng rất buồn khổ, cảm giác như hiện tại Jane đã có một sức mạnh siêu phàm, muốn đến đâu là đến được, chắc là Jane chỉ hiện hình trước mặt Allan thôi, người khác nhìn không thấy, giống như những tình tiết trong câu chuyện người – ma yêu nhau vậy.
Ngoài thời gian đi học, Ngải Mễ không rời Allan nửa bước. Thời gian gần đây, vì vết thương của Allan chưa bình phục nên phần lớn thời gian anh ở nhà. Thỉnh thoảng hai người cũng đi dạo, nhưng thường có người đến hỏi han “chuyện kia”, Allan đành phải trả lời một số câu hỏi. Có lúc một buổi đi dạo mà anh phải kể đi kể lại câu chuyện rất nhiều lần, thế nên anh cũng không muốn đi dạo nữa, nói là kể thêm vài lần nữa lại biến thành “thím Tường Lâm[1]” thì gay.
[1] Thím Tường Lâm trong truyện ngắn Lễ cầu phúc của Lỗ Tấn là một phụ nữ nông thôn chăm chỉ làm ăn, thật thà, lương thiện. Thím làm việc cần mẫn và nhanh nhẹn, chỉ mong bằng sức lao động của mình có thể đổi lấy quyền sống tối thiểu nhưng không được. Cuộc đời của thím Tường Lâm là những nỗi bất hạnh liên tiếp. Quá đau khổ, cùng quẫn, thím đã tìm đến mọi người và kể cho họ nghe câu chuyện của mình, mong được chia sẻ. Gặp ai thím cũng kể, nhưng mọi người đều lấy chuyện của thím ra làm trò cười.
Allan đến thư viện trường và thư viện thành phố mượn rất nhiều sách về, một số cuốn liên quan đến tâm lý của người tự tử hoặc làm thế nào để phòng ngừa tự tử. Ngải Mễ cũng có rất nhiều sách phải đọc, thế nên thường là mỗi người ôm một cuốn. Nhưng Ngải Mễ luôn thích ngồi cùng chỗ đọc với anh, anh ngồi sofa, cô cũng ngồi sofa, anh nằm trên giường, cô cũng phải nằm trên giường…
Bố mẹ Allan luôn mỉm cười khi thấy cô bám riết lấy anh như cái đuôi, có lúc còn nhiệt tình nhắc cô “nó đang ở trên ban công cháu ạ”. Nhưng mẹ Ngải Mễ thì kín đáo nhắc cô: “Con gái con đứa phải chú ý chứ con, không nên như thế…, sẽ bị người ta coi thường đấy.”
Kể cả bám riết như hình với bóng như vậy nhưng cũng có lúc hai người không ở gần nhau. Ngải Mễ phát hiện ra Allan rất thích đứng trên ban công, anh đứng ở đó và dõi ánh mắt xa xăm về phương xa hoặc bầu trời. Mỗi lần nhìn thấy anh đứng trên ban công là cô lại nghĩ chắc chắn anh đang nhớ Jane, có khi còn đang âm thầm chuyện trò với Jane mà cô không hề hay biết.
Cô hỏi anh: “Anh… có nhớ Jane không?”
“Có lúc nghĩ đến. Nhưng em đừng hiểu lầm, nghĩ ở đây là “nghĩ đến” chứ không phải “nhớ nhung”.”
“Anh… nghĩ đến… cái gì của cô ấy?”
“Phần lớn là muốn sửa chữa sai lầm, muốn dùng mấy cái “if” để viết lại lịch sử, nghĩ đến việc cô ấy cắt cổ tay…, chắc là phải đau đớn… lắm, vì cô ấy biết lưỡi dao… cắt đứt tay mình tại thời điểm nào.” Anh lắc đầu, như muốn cố gắng thoát khỏi sự ám ảnh nào đó. “Cô ấy nhìn máu mình chảy ra, chắc chắn là… rất sợ, chắc chắn là… rất lưu luyến với cuộc sống…”
“Anh đừng nghĩ nữa.” Ngải Mễ sợ hãi nói. “Anh lúc nào cũng nhớ đến những chuyện đó…”
“Cũng không hẳn là lúc nào cũng nghĩ.” Allan ngửa mặt nhìn bầu trời. “Chỉ là… cảm thấy những chuyện trên thế gian có quá nhiều sự trùng lặp. Mỗi lần đi đâu, anh đều nói với nhà họ… chỗ anh đi, đúng hôm đó… lại không nói… đi đâu… Cô ấy… tìm anh… khắp nơi, chứng tỏ cô ấy… vẫn nghi ngờ… về quyết định của mình, chắc là cô ấy sẽ nghĩ… nếu có người… thuyết phục được cô ấy… bảo cô ấy… từ bỏ ý định đó… Nếu hôm đó anh nói cho cô ấy biết là anh đi đâu, thì cô ấy đã không…”
“Anh nói đúng, không thể dùng mấy từ “if” để viết lại lịch sử…”
“Anh biết, nhưng… nếu viết lại được lịch sử thì tốt biết bao… Nhiều lúc nằm mơ cũng mơ thấy chuyện đó không xảy ra, rằng đó chỉ là một giấc mơ mà thôi…” Rồi anh nhìn cô bằng ánh mắt thăm dò. “Tại sao cô ấy… có suy nghĩ đó lâu như vậy mà anh không hề hay biết nhỉ?”
Ngải Mễ hỏi với vẻ đầy bất an: “Anh… biết được thì sao? Anh sẽ… bỏ em để… yêu chị ấy hả?”
Allan lắc đầu. “Không, thực ra anh luôn có cảm giác rằng… anh và cô ấy… là hai mẫu người hoàn toàn khác nhau, cô ấy rất… có chí tiến thủ, kết giao toàn với những người… có thể coi là giới thượng lưu…”
“Nếu anh và chị ấy là hai mẫu người hoàn toàn khác nhau thì việc anh biết chị ấy yêu anh hay không có gì khác nhau đâu?”
“Nếu biết, anh có thể… khuyên giải cô ấy, thuyết phục cô ấy từ bỏ ý nghĩ này. Rất nhiều người có ý định tự sát… cuối cùng đã từ bỏ ý đồ này, chỉ cần có người… khuyên nhủ họ… từ bỏ suy nghĩ đó, hầu hết họ sẽ không làm như thế nữa, hơn nữa… còn từ bỏ vĩnh viễn. Nếu cô ấy… yêu anh, chẳng lẽ cô ấy không chịu nghe anh khuyên à?”
“Nhưng chị ấy giấu kín như vậy, làm sao anh biết được?”
Allan nhìn cô chăm chú, hỏi: “Trong nhật ký cô ấy nhiều lần nhắc đến… suy nghĩ đó, nhưng đều không… thực hiện, chỉ có lần này, có phải là vì anh nói: “Nàng đi trước, tôi sẽ theo sau” không?”
Ngải Mễ bắt đầu cuống. “Anh đã nói là anh sẽ không tự trách mình quá nhiều cơ mà, anh thế này không phải tự trách mình thì là gì? Chẳng lẽ chị ấy không hiểu câu nói đùa này của anh ư? Trong lá thư tuyệt mệnh chị ấy có nhắc đến câu đó không? Trong nhật ký chị ấy có viết vì câu nói đó… mà tự tử không? Đều không có. Tại sao anh lại đổ hết trách nhiệm lên đầu mình ché?”
Allan vội an ủi cô: “Em đừng cả nghĩ quá, anh chỉ hỏi vậy thôi, nếu em nghĩ không phải thì thôi…”
Sau đó Allan không nhắc đến những chuyện này nữa, nhưng anh vẫn thường xuyên đứng trên ban công và dõi mắt nhìn xa xăm, nhìn bầu trời.
“Sao… bây giờ anh thích đứng trên ban công vậy?” Cô hỏi thăm dò.
“Từ trước đến nay anh vẫn thích đứng trên ban công, có lẽ là vì từ nhỏ mẹ anh đã dạy sau khi đọc sách phải nhìn ra phía xa, nhìn những lùm cây xanh để giữ cho mắt khỏi cận…”
“Nhưng… trước khi xảy ra chuyện đó anh có thói quen này đâu.” Cô chưa bao giờ thấy anh đứng trên ban công nhìn ra xa như thế.
Allan nghĩ một lát rồi nói: “Trước đây bọn mình hoạt động bí mật mà. Hồi ấy suốt ngày phải lén lút, làm sao có thể đứng trên ban công được? Ở ký túc xá anh cũng thường xuyên đứng trên ban công.” Khi nói câu này, Allan cười. “Chắc là câu này lại bị em lôi ra hỏi tội đấy.”
Lần này Ngải Mễ lại không phát hiện ra câu nói này có gì đáng phải hỏi tội. Cô hỏi: “Câu này†có gì đáng để hỏi tội?”
“Không có thì tốt rồi.”
Cô tò mò hỏi: “Rốt cuộc là hỏi tội gì chứ?”
“Anh tưởng em sẽ kết án là đứng trên ban công ký túc xá để ngắm con gái ở khu nhà số 2 của nghiên cứu sinh.” Allan cười lắc đầu. “Hiện giờ anh có thể nói anh có tật giật mình rồi.”
Cô mỉm cười vẻ không hưởng ứng. “Em chẳng hề có suy nghĩ đó. Em chỉ hy vọng anh có… tâm sự gì thì nói ra, đừng giấu trong lòng…”
Anh kéo tay cô, nói: “Anh sẽ nói ra nếu anh có tâm sự. Nhưng em đừng lúc nào cũng nghĩ anh có tâm sự. Có thể câu nói của cô Tĩnh Thu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong em, thế nên em cảm thấy hiện tại chắc chắn anh đang tự trách mình, nhưng anh không thế, anh biết người mất rồi sẽ… không thể sống lại, tự trách… cũng chẳng giải quyết được việc gì…”
Từ đó trở đi, dường như Allan không còn hay lên ban công nữa, nhưng Ngải Mễ lại nghĩ chắc là anh đang làm theo ý cô, bản thân anh vẫn muốn lên ban công nhưng anh sợ cô không vui nên mới không lên. Hiện tại cô không dám nói: “Anh muốn lên ban công thì cứ lên đi”, cô cảm thấy nếu cô nói như thế, anh lại sẽ làm theo ý cô, lên ban công. Cô sợ làm anh rối lên, không biết đâu mà lần, thôi cứ kệ anh vậy.
Cô để ý thấy anh hay hát bài El Condorpasa đó, có lúc anh vừa nấu ăn vừa khe khẽ ngân nga bài hát đó, có lúc thì vừa đọc báo vừa huýt sao, thường là hát phần điệp khúc.
Away, I’d rather sail away (Anh muốn bay cao, vượt qua muôn ngàn sóng gió)
Like a swan, that’s here and gone (Như chú thiên nga, nhẹ nhàng bay xa)
A man gets tied up to the ground (Nếu một người mất đi tự do)
He gives the world its saddest sound (Anh ta sẽ để lại âm thanh bi ai nhất trên cõi đời này)
Its saddest sound (Để lại âm thanh bi ai nhất trên cõi đời này)
Cô có cảm giác như anh đang mượn lời bài hát để nói hộ lòng mình, dường như anh bị giam cầm nơi trần thế, đem lại âm thanh bi ai nhất cho cõi đời này. Cô không biết anh muốn chạy trốn cái gì, chạy trốn đi đâu, có thể là sống ở đây anh cảm thấy rất ngột ngạt ư? Có thể là anh đã chán ngấy việc ở bên cô ư? Có thể là anh muốn rời xa thế giới này theo Jane ư?
Một hôm, anh lại ngân nga giai điệu của bài hát này, cô không kìm được bèn hỏi: “Anh cảm thấy mình đang bị giam cầm à? Anh… muốn bay đi đâu vậy?”
Allan bèn nhìn cô bằng ánh mắt hồ nghi. “Tại sao em lại nói như thế?”
“Vì anh… rất thích bài hát này…”
Allan như chợt hiểu ra vấn đề, liền giải thích: “Em cả nghĩ quá, lúc hát anh chẳng để ý đến lời bài hát, anh chỉ thích giai điệu của nó thôi, mấy câu này nghe rất khoáng đạt, hát thấy rất đã, không có ý gì khác cả.” Thấy cô nhìn anh bằng ánh mắt không tin, anh lại bổ sung thêm: “Thực ra rất nhiều người như thế, thường ngân nga một bài hát nào đó một cách vô thức, hoặc chỉ mấy câu trong một bài hát, hát đi hát lại, nhẩm đi nhẩm lại, còn việc hát bài nào thì có lúc là hoàn toàn ngẫu nhiên, không có ý gì đặc biệt cả.”
“Nhưng…lỡ lời…”
“Lỡ lời là một phản ứng trong tiềm thức hả?” Allan lắc đầu. “Anh không biết Sigmund Freud[2] nói có đúng hay không, đấy, anh cũng không phải là lỡ lời.” Rồi anh ôm chặt cô, đùa: “Em thích phân tích ý nghĩa tương trưng quá, kiểu như đặt anh dưới kính hiển vi để giải phẫu vậy, làm sao anh chịu nổi sự phân tích đó?”
[2] Sigmund Freud nguyên là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo. Ông được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu phân tâm học.
“Em… chỉ lo anh…”
“Anh biết là em lo anh chìm trong sự đau khổ, nhưng anh không thế đâu. Chuyện gì em cũng phân tích anh theo hướng đau khổ thì lại làm anh sợ đấy. Hiện tại làm việc gì anh cũng phải nghĩ, không biết em sẽ nhìn thấy ý nghĩa tượng trưng gì trong đó…”
Trong lúc ngủ, anh thường nằm nghiêng, hai chân co lên, hai tay rụt lại đặt lên hai đầu gối. Ngải Mễ đọc trong cuốn sách nào đó nói rằng, những người từ đáy lòng sợ bóng tối, sợ cô độc nên mới có tư thế ngủ như trẻ sơ sinh, tựa như đang nằm trong vòng tay an toàn, ấm áp của người mẹ.
Cô đoán tư thế ngủ này của anh hình thành trong đồn thu thẩm. Chắc chắn ban ngày anh rất cứng rắn, nhưng đêm đến là anh nằm co ro như thế trên chiếc giường vừa lạnh vừa cứng, trong mơ tìm kiếm vòng tay ấm áp. Đó là những đêm tối đáng sợ biết bao, anh mất đi tự do, không biết mình sẽ bị ngồi tù oan trong bao lâu, cũng không biết mình có chết đi mà không được minh oan hay không, chắc chắn nỗi cô đơn và sự tuyệt vọng đã gặm nhấm trái tim anh.
Nghĩ đến đây là cô không sao cầm được nước mắt, trong lòng trào lên bản năng yêu thương của người mẹ. Có lúc cô ngồi trên giường, đặt đầu anh lên đùi cô, ngắm anh ngủ say trong giấc nồng, có lúc cô nằm đối mặt với anh, để anh ngủ ngon lành trong lòng cô như một đứa trẻ.
Hồi mới được thả, dường như anh rất nghiện ngủ. Cô không biết vì ở trong đó anh ngủ không đủ hay là do anh thiếu máu hoặc bị đánh nhiều nên não bị ảnh hưởng. Hỏi anh thì anh bảo chắc chắn là do ở trong đó thiếu ngủ, bọn họ thường xuyên bắt anh lao động ban ngày, tối đến tra khảo, dù có ngủ thì cũng không được ngủ ngon. Giờ ra ngoài rồi, có thể ngủ một cách tự do tự tại, yên tâm thoải mái, thế nên cứ đặt mình xuống giường là ngủ ngay được.
Cô biết những ký ức đáng sợ kia vẫn đang đeo bám anh, vì thỉnh thoảng anh choàng tỉnh, tóc ướt sũng mồ hôi, ánh mắt ngơ ngác, tựa như không biết mình đang ở chốn nào. Nhưng đến khi cô hỏi anh mơ gì vậy, thì anh luôn trả lời “không có gì”, thấy cô không tin, anh liền bảo mơ thấy mấy chuyện hồi nhỏ, đánh nhau với bạn. Cô biết anh đang nói dối, chắc chắn là anh không muốn kể những tình tiết đáng sợ đó, sợ cô cũng gặp ác mộng.
Nhiều lúc cô chỉ mong anh cứ ngủ mãi mãi như thế này trong lòng cô, vì khi ngủ, nhìn anh như một đứa trẻ, anh có nỗi sợ hãi, mệt mỏi, yếu đuối của riêng mình và cần cô bảo vệ, quan tâm, cần tình yêu và sự chăm sóc của cô, cô cảm thấy như thế mình sẽ chiếm một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống của anh. Nhưng đến khi tỉnh giấc, cô lại cảm thấy anh mạnh mẽ vô cùng, không còn là đứa trẻ cần cô bảo vệ nữa.
Cô hỏi anh có phải vì bị giam ở đồn thu thẩm nên mới hình thành tư thế ngủ đó không, anh bảo không phải, vì có rất nhiều người thích nằm nghiêng. Bà nội anh nói, một người phải “đứng như tùng, ngồi như chuông, ngủ như cung, đi như phong”, anh nằm như thế tức là “ngủ như cung” (chữ cung “弓”). Anh sợ cô không tin bèn nói Jane cũng biết anh có tư thế ngủ này, chứng tỏ trước khi bị bắt vào đồn thu thẩm, anh đã ngủ như thế.
Cô tò mò hỏi: “Sao chị ấy lại biết tư thế ngủ của anh được?”
Allan không chịu trả lời, có vẻ như anh rất hối hận vì đã nói ra câu đó. Không chống đỡ được trước sự tra hỏi của cô, anh đành nói: “Trong nhật ký, cô ấy nói là qua cửa sổ, cô ấy nhìn thấy anh ngủ như thế…”
Nghe xong Ngải Mễ thấy rất sợ, nửa đêm tỉnh giấc, cô không bao giờ dám nhìn ra cửa sổ, sợ lại thấy Jane đứng ở đó, thế nên cô luôn đóng cửa sổ và kéo rèm cửa lại.
Trước đây cô không tin vào quỷ hồn, nhưng sau chuyện của Jane, cô bắt đầu tin vào những điều này, cứ có cảm giác như Jane đang lởn vởn ở đâu đó. Người đang sống đã chết bao giờ đâu, làm sao có thể khẳng định sau khi chết, linh hồn không lang thang phiêu bạt trên thế gian này? Đến khi chết rồi lại phát hiện ra có linh hồn thật, nhưng lại không có cách nào để nói cho người đang sống biết. Có lẽ là hai thế giới âm dương, chỉ có một số ít người có thể trao đổi, giao lưu, chỉ có rất ít người nhìn thấy quỷ hồn, nhưng mọi người đều coi những điều mà số ít người đó nói là chuyện mê tín dị đoan và phủ định.
Cô nghĩ Jane có hàng nghìn lý do để hận cô. Jane yêu Allan bao nhiêu năm như thế, mặc dù ngày trước từng có ý định tự tử nhưng cũng chỉ là viết trong nhật ký mà thôi. Nhưng khi phát hiện ra mối quan hệ của cô và Allan, hai tháng sau, Jane đã hành động, chắc chắn là vì cô đã khiến Jane tuyệt vọng hoàn toàn. May mà cô không phải là người hay tự trách mình, thậm chí có thể nói là người thích trách người khác, xảy ra chuyện gì đó, kể cả không trách người khác thì cũng vẫn có thể tìm ra vài lý do để biện minh cho mình, nếu không thật sự không biết sẽ khổ sở thế nào.
Cô phát hiện ra Allan luôn mở cửa sổ trong phòng, rèm cửa cũng luôn mở, cô đoán là anh mở rèm cửa cho Jane, để Jane luôn nhìn thấy anh qua cửa sổ, như thế Jane có thể yên tâm về đi ngủ. Nhưng nếu hỏi anh, anh lại nói là vì trời nóng, mở rèm cửa cho thoáng, cô không muốn vạch trần lời nói dối của anh nhưng trong lòng rất buồn khổ, cảm giác như hiện tại Jane đã có một sức mạnh siêu phàm, muốn đến đâu là đến được, chắc là Jane chỉ hiện hình trước mặt Allan thôi, người khác nhìn không thấy, giống như những tình tiết trong câu chuyện người – ma yêu nhau vậy.
Ngoài thời gian đi học, Ngải Mễ không rời Allan nửa bước. Thời gian gần đây, vì vết thương của Allan chưa bình phục nên phần lớn thời gian anh ở nhà. Thỉnh thoảng hai người cũng đi dạo, nhưng thường có người đến hỏi han “chuyện kia”, Allan đành phải trả lời một số câu hỏi. Có lúc một buổi đi dạo mà anh phải kể đi kể lại câu chuyện rất nhiều lần, thế nên anh cũng không muốn đi dạo nữa, nói là kể thêm vài lần nữa lại biến thành “thím Tường Lâm[1]” thì gay.
[1] Thím Tường Lâm trong truyện ngắn Lễ cầu phúc của Lỗ Tấn là một phụ nữ nông thôn chăm chỉ làm ăn, thật thà, lương thiện. Thím làm việc cần mẫn và nhanh nhẹn, chỉ mong bằng sức lao động của mình có thể đổi lấy quyền sống tối thiểu nhưng không được. Cuộc đời của thím Tường Lâm là những nỗi bất hạnh liên tiếp. Quá đau khổ, cùng quẫn, thím đã tìm đến mọi người và kể cho họ nghe câu chuyện của mình, mong được chia sẻ. Gặp ai thím cũng kể, nhưng mọi người đều lấy chuyện của thím ra làm trò cười.
Allan đến thư viện trường và thư viện thành phố mượn rất nhiều sách về, một số cuốn liên quan đến tâm lý của người tự tử hoặc làm thế nào để phòng ngừa tự tử. Ngải Mễ cũng có rất nhiều sách phải đọc, thế nên thường là mỗi người ôm một cuốn. Nhưng Ngải Mễ luôn thích ngồi cùng chỗ đọc với anh, anh ngồi sofa, cô cũng ngồi sofa, anh nằm trên giường, cô cũng phải nằm trên giường…
Bố mẹ Allan luôn mỉm cười khi thấy cô bám riết lấy anh như cái đuôi, có lúc còn nhiệt tình nhắc cô “nó đang ở trên ban công cháu ạ”. Nhưng mẹ Ngải Mễ thì kín đáo nhắc cô: “Con gái con đứa phải chú ý chứ con, không nên như thế…, sẽ bị người ta coi thường đấy.”
Kể cả bám riết như hình với bóng như vậy nhưng cũng có lúc hai người không ở gần nhau. Ngải Mễ phát hiện ra Allan rất thích đứng trên ban công, anh đứng ở đó và dõi ánh mắt xa xăm về phương xa hoặc bầu trời. Mỗi lần nhìn thấy anh đứng trên ban công là cô lại nghĩ chắc chắn anh đang nhớ Jane, có khi còn đang âm thầm chuyện trò với Jane mà cô không hề hay biết.
Cô hỏi anh: “Anh… có nhớ Jane không?”
“Có lúc nghĩ đến. Nhưng em đừng hiểu lầm, nghĩ ở đây là “nghĩ đến” chứ không phải “nhớ nhung”.”
“Anh… nghĩ đến… cái gì của cô ấy?”
“Phần lớn là muốn sửa chữa sai lầm, muốn dùng mấy cái “if” để viết lại lịch sử, nghĩ đến việc cô ấy cắt cổ tay…, chắc là phải đau đớn… lắm, vì cô ấy biết lưỡi dao… cắt đứt tay mình tại thời điểm nào.” Anh lắc đầu, như muốn cố gắng thoát khỏi sự ám ảnh nào đó. “Cô ấy nhìn máu mình chảy ra, chắc chắn là… rất sợ, chắc chắn là… rất lưu luyến với cuộc sống…”
“Anh đừng nghĩ nữa.” Ngải Mễ sợ hãi nói. “Anh lúc nào cũng nhớ đến những chuyện đó…”
“Cũng không hẳn là lúc nào cũng nghĩ.” Allan ngửa mặt nhìn bầu trời. “Chỉ là… cảm thấy những chuyện trên thế gian có quá nhiều sự trùng lặp. Mỗi lần đi đâu, anh đều nói với nhà họ… chỗ anh đi, đúng hôm đó… lại không nói… đi đâu… Cô ấy… tìm anh… khắp nơi, chứng tỏ cô ấy… vẫn nghi ngờ… về quyết định của mình, chắc là cô ấy sẽ nghĩ… nếu có người… thuyết phục được cô ấy… bảo cô ấy… từ bỏ ý định đó… Nếu hôm đó anh nói cho cô ấy biết là anh đi đâu, thì cô ấy đã không…”
“Anh nói đúng, không thể dùng mấy từ “if” để viết lại lịch sử…”
“Anh biết, nhưng… nếu viết lại được lịch sử thì tốt biết bao… Nhiều lúc nằm mơ cũng mơ thấy chuyện đó không xảy ra, rằng đó chỉ là một giấc mơ mà thôi…” Rồi anh nhìn cô bằng ánh mắt thăm dò. “Tại sao cô ấy… có suy nghĩ đó lâu như vậy mà anh không hề hay biết nhỉ?”
Ngải Mễ hỏi với vẻ đầy bất an: “Anh… biết được thì sao? Anh sẽ… bỏ em để… yêu chị ấy hả?”
Allan lắc đầu. “Không, thực ra anh luôn có cảm giác rằng… anh và cô ấy… là hai mẫu người hoàn toàn khác nhau, cô ấy rất… có chí tiến thủ, kết giao toàn với những người… có thể coi là giới thượng lưu…”
“Nếu anh và chị ấy là hai mẫu người hoàn toàn khác nhau thì việc anh biết chị ấy yêu anh hay không có gì khác nhau đâu?”
“Nếu biết, anh có thể… khuyên giải cô ấy, thuyết phục cô ấy từ bỏ ý nghĩ này. Rất nhiều người có ý định tự sát… cuối cùng đã từ bỏ ý đồ này, chỉ cần có người… khuyên nhủ họ… từ bỏ suy nghĩ đó, hầu hết họ sẽ không làm như thế nữa, hơn nữa… còn từ bỏ vĩnh viễn. Nếu cô ấy… yêu anh, chẳng lẽ cô ấy không chịu nghe anh khuyên à?”
“Nhưng chị ấy giấu kín như vậy, làm sao anh biết được?”
Allan nhìn cô chăm chú, hỏi: “Trong nhật ký cô ấy nhiều lần nhắc đến… suy nghĩ đó, nhưng đều không… thực hiện, chỉ có lần này, có phải là vì anh nói: “Nàng đi trước, tôi sẽ theo sau” không?”
Ngải Mễ bắt đầu cuống. “Anh đã nói là anh sẽ không tự trách mình quá nhiều cơ mà, anh thế này không phải tự trách mình thì là gì? Chẳng lẽ chị ấy không hiểu câu nói đùa này của anh ư? Trong lá thư tuyệt mệnh chị ấy có nhắc đến câu đó không? Trong nhật ký chị ấy có viết vì câu nói đó… mà tự tử không? Đều không có. Tại sao anh lại đổ hết trách nhiệm lên đầu mình ché?”
Allan vội an ủi cô: “Em đừng cả nghĩ quá, anh chỉ hỏi vậy thôi, nếu em nghĩ không phải thì thôi…”
Sau đó Allan không nhắc đến những chuyện này nữa, nhưng anh vẫn thường xuyên đứng trên ban công và dõi mắt nhìn xa xăm, nhìn bầu trời.
“Sao… bây giờ anh thích đứng trên ban công vậy?” Cô hỏi thăm dò.
“Từ trước đến nay anh vẫn thích đứng trên ban công, có lẽ là vì từ nhỏ mẹ anh đã dạy sau khi đọc sách phải nhìn ra phía xa, nhìn những lùm cây xanh để giữ cho mắt khỏi cận…”
“Nhưng… trước khi xảy ra chuyện đó anh có thói quen này đâu.” Cô chưa bao giờ thấy anh đứng trên ban công nhìn ra xa như thế.
Allan nghĩ một lát rồi nói: “Trước đây bọn mình hoạt động bí mật mà. Hồi ấy suốt ngày phải lén lút, làm sao có thể đứng trên ban công được? Ở ký túc xá anh cũng thường xuyên đứng trên ban công.” Khi nói câu này, Allan cười. “Chắc là câu này lại bị em lôi ra hỏi tội đấy.”
Lần này Ngải Mễ lại không phát hiện ra câu nói này có gì đáng phải hỏi tội. Cô hỏi: “Câu này†có gì đáng để hỏi tội?”
“Không có thì tốt rồi.”
Cô tò mò hỏi: “Rốt cuộc là hỏi tội gì chứ?”
“Anh tưởng em sẽ kết án là đứng trên ban công ký túc xá để ngắm con gái ở khu nhà số 2 của nghiên cứu sinh.” Allan cười lắc đầu. “Hiện giờ anh có thể nói anh có tật giật mình rồi.”
Cô mỉm cười vẻ không hưởng ứng. “Em chẳng hề có suy nghĩ đó. Em chỉ hy vọng anh có… tâm sự gì thì nói ra, đừng giấu trong lòng…”
Anh kéo tay cô, nói: “Anh sẽ nói ra nếu anh có tâm sự. Nhưng em đừng lúc nào cũng nghĩ anh có tâm sự. Có thể câu nói của cô Tĩnh Thu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong em, thế nên em cảm thấy hiện tại chắc chắn anh đang tự trách mình, nhưng anh không thế, anh biết người mất rồi sẽ… không thể sống lại, tự trách… cũng chẳng giải quyết được việc gì…”
Từ đó trở đi, dường như Allan không còn hay lên ban công nữa, nhưng Ngải Mễ lại nghĩ chắc là anh đang làm theo ý cô, bản thân anh vẫn muốn lên ban công nhưng anh sợ cô không vui nên mới không lên. Hiện tại cô không dám nói: “Anh muốn lên ban công thì cứ lên đi”, cô cảm thấy nếu cô nói như thế, anh lại sẽ làm theo ý cô, lên ban công. Cô sợ làm anh rối lên, không biết đâu mà lần, thôi cứ kệ anh vậy.
Cô để ý thấy anh hay hát bài El Condorpasa đó, có lúc anh vừa nấu ăn vừa khe khẽ ngân nga bài hát đó, có lúc thì vừa đọc báo vừa huýt sao, thường là hát phần điệp khúc.
Away, I’d rather sail away (Anh muốn bay cao, vượt qua muôn ngàn sóng gió)
Like a swan, that’s here and gone (Như chú thiên nga, nhẹ nhàng bay xa)
A man gets tied up to the ground (Nếu một người mất đi tự do)
He gives the world its saddest sound (Anh ta sẽ để lại âm thanh bi ai nhất trên cõi đời này)
Its saddest sound (Để lại âm thanh bi ai nhất trên cõi đời này)
Cô có cảm giác như anh đang mượn lời bài hát để nói hộ lòng mình, dường như anh bị giam cầm nơi trần thế, đem lại âm thanh bi ai nhất cho cõi đời này. Cô không biết anh muốn chạy trốn cái gì, chạy trốn đi đâu, có thể là sống ở đây anh cảm thấy rất ngột ngạt ư? Có thể là anh đã chán ngấy việc ở bên cô ư? Có thể là anh muốn rời xa thế giới này theo Jane ư?
Một hôm, anh lại ngân nga giai điệu của bài hát này, cô không kìm được bèn hỏi: “Anh cảm thấy mình đang bị giam cầm à? Anh… muốn bay đi đâu vậy?”
Allan bèn nhìn cô bằng ánh mắt hồ nghi. “Tại sao em lại nói như thế?”
“Vì anh… rất thích bài hát này…”
Allan như chợt hiểu ra vấn đề, liền giải thích: “Em cả nghĩ quá, lúc hát anh chẳng để ý đến lời bài hát, anh chỉ thích giai điệu của nó thôi, mấy câu này nghe rất khoáng đạt, hát thấy rất đã, không có ý gì khác cả.” Thấy cô nhìn anh bằng ánh mắt không tin, anh lại bổ sung thêm: “Thực ra rất nhiều người như thế, thường ngân nga một bài hát nào đó một cách vô thức, hoặc chỉ mấy câu trong một bài hát, hát đi hát lại, nhẩm đi nhẩm lại, còn việc hát bài nào thì có lúc là hoàn toàn ngẫu nhiên, không có ý gì đặc biệt cả.”
“Nhưng…lỡ lời…”
“Lỡ lời là một phản ứng trong tiềm thức hả?” Allan lắc đầu. “Anh không biết Sigmund Freud[2] nói có đúng hay không, đấy, anh cũng không phải là lỡ lời.” Rồi anh ôm chặt cô, đùa: “Em thích phân tích ý nghĩa tương trưng quá, kiểu như đặt anh dưới kính hiển vi để giải phẫu vậy, làm sao anh chịu nổi sự phân tích đó?”
[2] Sigmund Freud nguyên là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo. Ông được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu phân tâm học.
“Em… chỉ lo anh…”
“Anh biết là em lo anh chìm trong sự đau khổ, nhưng anh không thế đâu. Chuyện gì em cũng phân tích anh theo hướng đau khổ thì lại làm anh sợ đấy. Hiện tại làm việc gì anh cũng phải nghĩ, không biết em sẽ nhìn thấy ý nghĩa tượng trưng gì trong đó…”