Nhất Phẩm Giang Sơn

Chương 282: Đoàn Thị

- Nghe ý của đại nhân.

Một giọng nói trầm thấp vang lên, là Dương Nghĩa Trinh giống như Ưng Nhất, xuất hiện bên cạnh hắn:

- Dường như trước đây đại nhân đã từng đến Đại Lý rồi sao!

- Tổ tiên ta đã từng tới đây rồi.

Trần Khác thản nhiên nói:

- Có lẽ kiếp trước của ta là người Đại Lý.

- Đại nhân lại biết kiếp trước của mình sao?

Người Đại Lý đều tin vào Phật giáo, vì vậy nên Dương Nghĩa Trinh cũng tin vào thuyết luân hồi.

- Ha ha…

Trần Khác chỉ cười, không trả lời.

- Ngày mai sẽ đến thành Đại Lý.

Dương Nghĩa Tinh lơ đễnh, nghiêm mặt nói:

- Đại nhân, chúng ta nói chuyện thẳng thắn một chút đi.

- Ta chỉ là Phó sứ, Thế Tử là người tiếp dẫn sứ đoàn.

Trần Khác nhìn phong nguyệt khôn cùng, nói:

- Chúng ta có thể nói chuyện gì đây?

- Đại nhân, minh nhân bất thuyết ám thoại (người đàng hoàng không nói lời ám muội). Đi cả quãng đường này chẳng lẽ ta còn không nhìn ra trong sứ đoàn, người định đoạt không phải là vị Chính Sứ đức cao vọng trọng kia, mà lại chính là đại nhân sao?

Dừng một lát, gã ưỡn ngực ngạo nghễ nói tiếp:

- Mà nước Đại Lý là thiên hạ của Bạch nhân, Dương gia chúng ta lại là gia tộc mạnh nhất Bạch nhân, chuyện gì có được chúng ta ủng hộ thì đảm bảo sẽ thuận buồm xuôi gió!

Cái gọi là “Bạch man” “Ô man” đều là cách gọi miệt thị của người Tống đối với người Đại Lý. Người Đại Lý đương nhiên không thể tự gọi mình như thế, bọn họ gọi Bạch man là Bạch nhân, Ô man là Hắc nhân… Đây không phải là chia theo màu da, mà là phân biệt theo màu sắc trang phục dân tộc.

- Dương công tử đã say rồi.

Trần Khác quay lại liếc gã một cái, nói:

- Sao ta lại nghe nói vương tộc mới là gia tộc Bạch nhân mạnh nhất của quý quốc?

- Cái này…

Dương Nghĩa Trinh không nghĩ tới Trần Khác lại rất hiểu thành phần dân tộc của nước Đại Lý đến như vậy, gã đành phải ngượng ngùng sửa:

- Vương Thượng được tính là tất cả các Vương tộc trong Đại Lý, không phân biệt là Bạch, không phân biệt là Hắc.

Trần Khác khẽ gật đầu, trong lòng tự nhủ:

- Đó chính là chuyện làm cho ngươi cảm thấy chán nản.

Sắc mặt hắn không đổi, nói:

- Tốt lắm, ngươi muốn nói chuyện gì đây?

- Lời này chắc hẳn phải do ta hỏi đại nhân mới đúng.

- Mục đích của chúng ta rất đơn giản.

Trần Khác thản nhiên trả lời:

- Chính là xác định xem Mã Chí Thư có ở trong cảnh nội của Đại Lý hay không.

- Nếu có thì sao?

- Hy vọng quý quốc giao lão cho chúng ta.

Đây vốn là sự lựa chọn giữa trung và nghĩa, Dương Nghĩa Trinh trầm ngâm một lát rồi mới nói:

- Nếu Thiên triều đã phái đặc sứ ngàn dặm xa xôi mà đến, tất nhiên cola đã nắm giữ được chứng cứ xác thực rồi.

Trần Khác hơi gật gật đầu, nói:

- Nhiều chứng cứ cho thấy quả thật lão đang ở trong cảnh nội của Đại Lý.

- Nhưng quý sứ đã rời khỏi Đại Tống một tháng, trong khoảng thời gian này, đủ để cho Mã Chí Thư đã rời đi nơi khác.

Dương Nghĩa Trinh có vẻ vô sỉ đáp lại.

- Nói vậy thì ít nhất là lão đã từng đến quý quốc sao?

- Đúng vậy.

Dương Nghĩa Trinh gật đầu nói:

- Không dám dối gạt đại nhân, Mã tộc là một trong ba mươi bảy tộc Hắc nhân, hơn nữa Mã tộc còn là tộc mạnh nhất.

Dừng một lát, Dương Nghĩa Trinh mới nói tiếp:

- Hơn nữa, năm đó, từ sau khi phụ thân của Mã Chí Thư bị giết, lão đã hoàn toàn dựa vào thế lực của Hắc nhân mà đoạt lại Tây Bình đấy.

- Sau khi trở thành bại binh, lão đã dẫn theo rất nhiều đồng tộc tới đây, Đại Lý chúng ta vốn không muốn tiếp nhận lão, nhưng dưới sự che chở của thủ lĩnh ba mươi bảy tộc Hắc nhân, bọn họ vẫn để lại nền móng của Mã tộc ở đây.

- Sự thẳng thắn của ngươi thật sự làm ta rất bất ngờ đó.

Trần Khác hiện lên vẻ mặt khen ngợi, nói:

- Có thể được xưng là người công bằng, thẳng thắn rồi.

- Đa tạ Đại nhân đã khích lệ!

Dương Nghĩa Trinh cười nói:

- Nếu lão là kẻ thù của Thượng quốc thì cũng sẽ là kẻ thù của Dương thị ta. Hiện giờ, nếu lão đã bị Hắc nhân đuổi đi thì thôi, còn nếu lão vẫn ở trong cảnh nội của Đại Lý ta thì chúng ta tất nhiên sẽ hiệp trợ Thượng quốc bắt lão quy án.

- Phần tâm ý này của Thế tử, hạ quan xin nhớ kỹ trong lòng.

Trần Khác gật gật đầu nói: truyện copy từ tunghoanh.com

- Ta tin rằng có Thế tử hiệp trợ, việc này của chúng ta sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Tương lai sau khi về nước, ta nhất định sẽ xin Hoàng thượng trọng thưởng cho Dương gia!

- Chỉ cần Thượng quốc biết ở vùng trời phía nam này vẫn còn có thần tử Dương thị chúng ta trung thành và tận tâm, hàn gia đã có thể mãn nguyện rồi.

Dương Nghĩa Trinh đầu tiên là cám ơn, sau đó ân cần nói:

- Đại Lý về đêm rất lạnh, Đại nhân nên vào khoang thuyền nghỉ ngơi càng sớm càng tốt.

- Ta đứng đây một lúc.

Trần Khác cười nói:

- Đây thật sự là một quốc gia khiến cho người ta cảm thấy được yên bình.

- Vậy ta không tiếp tục quấy rầy đại nhân nữa.

Dương Nghĩa Trinh khom người thi lễ rồi lui ra.

Trần Khác không đợi bao lâu, chỉ một lúc sau đã có một người đi ra từ trong bóng tối, không cần nhìn cũng biết đó là Cao Thăng Thái kia.

Cao Thăng Thái đưa cho Trần Khác một bầu Ai Lao tửu tinh xảo, nói:

- Rượu vừa hâm nóng, để Đại nhân đuổi bớt hàn khí.

Ai Lao Tửu mà Trần Khác uống ở đây thực ra chính là Vân Nam Đồng Oa Tửu sau này, bởi vì cuối cùng có một công đoạn chưng cất nên rượu này trong hơn, cũng mạnh hơn rượu ở Trung Nguyên. Đại khái tương đương với rượu trắng ba mươi độ.

Ban đầu người ở Đại Lý rất tự đắc, nói tuy rằng mọi thứ của chúng ta đều kém hơn Thượng quốc, duy nhất chỉ có rượu này là được ủ tốt hơn. Sau đó, Trần Khác cho người cầm ra một vò Tiên Lộ, bọn họ liền không dám tiếp tục khoe khoang nữa.

Tuy nhiên rượu này quả thật cũng không tệ, ít nhất uống không dễ say như Tiên lộ. Trần Khác nhận lấy bầu rượu, nhấp một ngụm, nói:

- Sống ở một vùng thế ngoại đào nguyên như thế này, uống rượu ngon, ngắm cảnh đẹp, thật sự giống như thần tiên.

- Đại nhân còn chưa được thấy qua cảnh đẹp nhất của Đại Lý đâu.

Sắc mặt Cao Thăng Thái kia toát ra vẻ từng trải của nam nhân, nói tiếp:

- Mỹ nữ Đại Lý so với Tiên Lộ tửu thì còn muốn say hơn.

- Vậy ta nhất định phải gặp một lần cho biết.

Trần Khác cười ha hả nói.

- Tất cả tính lên người Tiểu Hầu ta đi...

Cao Thăng Thái vỗ ngực nói:

- Ta nhất định sẽ rất hân hạnh được đón tiếp đại nhân.

- Sao có thể phụ ý tốt của Tiểu Hầu gia như vậy được?

Trần Khác vui vẻ cười nói:

- Hạ quan vạn phần mong đợi.

- Nhất định sẽ không làm cho Đại nhân phải thất vọng.

Cao Thăng Thái cũng rất vui vẻ, chỉ sợ loại người không yêu thích thứ gì mà thôi, nếu Tống Sứ này đã mở miệng ra là rất tốt rồi. Sau đó gã cũng không nói chuyện chính sự, chỉ giới thiệu phong cảnh Đại Lý với Trần Khác, kín đáo hứa hẹn một chút, cũng không có số lượng sẽ hối lộ cụ thể.

Gã có học thức uyên bác, lại thêm lời lẽ dí dỏm, nói chuyện với Trần Khác rất vui, hai người còn kêu chỉ hận quen biết nhau quá muộn. Hai người nói chuyện tới tận nửa đêm mới quay trở về phòng mình.

Sau khi quay về phòng, Trần Khác vội vàng chui vào trong chăn, cả người run lên, nói:

- Con mẹ nó, cái nơi quỷ quái này, buổi tối lại lạnh như mùa đông.

- Tán gẫu với hai tên tiểu tử thế nào rồi?

Tống Đoan Bình ở cùng phòng nhỏ giọng hỏi.

- Đều là nhân vật đấy.

Răng Trần Khác va vào nhau lập cập, lấy ra một bình Tiên Lộ Tửu uống hai ngụm, lúc này cả người hắn mới ấm lên:

- Tuy nhiên Cao Thăng Thái biết cách làm người hơn Dương Nghĩa Trinh, ở đất Đại Lý núi sát núi này, điều ấy rất trọng yếu, vì vậy ta xem trọng Cao Thăng Thái hơn.

- Tuy nhiên, theo như lời hai vị này nói, hình như bọn họ đều không để Đoàn gia vào mắt.

Trần Khác cười mắng:

- Cũng không biết lão gia gia Đoàn Dự của hắn lăn lộn thế nào.

- Lão gia gia Đoàn Dự của hắn?

- Chính là Đoàn Tư Liêm.

Trần Khác thở dài nói:

- Thế cục trong nước Đại Lý xem ra phức tạp hơn xa so với tưởng tượng của chúng ta, lời nói của quốc chủ ở đây không có uy, việc chúng ta cần làm lại phiền toái thêm một chút.

Dừng một lát, ánh mắt Trần Khác ngưng lại, nói:

- Nói không chừng chúng ta cũng bị cuốn vào cơn lốc tranh giành quyền lực trong Đại Lý rồi.

- Ngày mai sẽ nhìn thấy lão Đòan rồi, nói không chừng hai tên tiểu tử kia chỉ là kẻ ba hoa khoác lác, người ta vẫn là một vị vua tài trí mưu lược kiệt xuất đó.

Tống Đoan Bình cười nói:

- Nhìn kỹ rồi hãy nói.

Trần Khác gật gật đầu, thổi tắt đèn.

Sáng sớm hôm sau, lâu thuyền đã đến Đại Lý thành, quốc quân Đại Lý Đoàn Tư Liêm tự mình dẫn đầu văn võ bá quan đi ra tiếp đón, nghi thức cực kỳ long trọng.

Phía đông thành Đại Lý là Nhị Hải xanh biếc, phía tây dựa vào dãy Thương Sơn hùng vĩ, cả tòa thành to lớn được xây dựa vào thế núi, một dải tường đá xanh bao quanh tòa thành. Bên trong thành, từ nam đến bắc là năm con đường cái lớn, từ tây sang đông là tám con phố, cả tòa thành giống với Lạc Dương, được thiết kế giống như một bàn cờ.

Chi thấy trong thành một màu tường gạch đá xanh, một kiểu mái vòm cong cong, thấp thoáng một vài bóng cây hoa nhẹ nhàng trôi trên mặt nước. Lại có mười mấy ngôi chùa tường đỏ ngói xanh, tản ra Phật âm mênh mang, ba tòa bạch tháp thấp thoáng nơi xa xa, thánh khiết khác thường.

Cho dù thành Đại Lý chỉ lớn bằng một nửa thành Biện Kinh, nhưng kết cấu của nó lại được thiết kế thành từng tầng hình khối, khiến cho cảm quan về thành Đại Lý sâu hơn thành Biện Kinh. Nhưng tuyệt đối không có cảm giác hống hách, giương nanh múa vuốt, mà để lại để cho người ta có một cảm giác an bình, hài hòa, e rằng có đi đến Tây Thiên cực lạc thì cũng không thể hơn được nơi này.

- Thật không hổ là nơi Phật quang phổ chiếu, Diệu hương phúc địa…

Huyền Ngọc hòa thượng lúc này đã thấy lệ nóng lưng tròng rồi. Còn chưa nói dứt lời, Huyền Ngọc đã trúng một cái vỗ vai thật mạnh của Tống Đoạn Bình:

- Xem ra ngươi đã tìm được đất Phật của mình rồi đó.

Trên bến tàu trước cửa sông, từng nhóm Kim giáp võ sĩ tay cầm họa kích, cờ nghi thức đủ loại màu sắc, cảnh giới xung quanh. Trên bậc thang hai bên là dàn nhạc cung đình Đại Lý đứng xếp thành hàng, tầng tầng lớp lớp. Tầng thứ nhất là năm mươi nhạc công chơi đàn tỳ bà, tầng thứ hai là đàn Không (Loại đàn thời xưa, ít nhất có năm dây, nhiều nhất có hai mươi lăm dây), hai tòa trống Hạt (Một loại trống cổ của Trung Quốc, hình dạng cao cao, có hai mặt trống), tầng thứ ba và thứ tư là các loại nhạc khí cùng nhau diễn tấu như tiêu, sênh, huân, tất, lật, long địch, tầng thứ năm là nhóm có hai trăm người chống trượng, đánh một loại trống cổ nhỏ, người biểu diễn mặc áo lót rộng ba màu tím, đỏ, lục, thắt đai lưng mạ vàng, tất cả đều là những nữ tử xinh đẹp động lòng người.

Vững vàng đứng giữa văn võ bá quan và công khanh quý tộc của Đại Lý là một nam tử chừng ba mươi tuổi, mặc trường bào cổ tròn, tay áo Long Văn, ung dung hoa quý – Đó là quốc quân Đại Lý Đoàn Tự Liêm. Thân hình y cao lớn, chòm râu đẹp bồng bềnh, phất phơ, nhìn từ xa rất có dáng dấp giống như nhân quân.

Được phụng thừa trong cảnh nội Đại Lý, tinh khí của Vương Khuê đã dần dần được khôi phục, toàn thân ông mặc một bộ áo bào màu tím, thắt lưng đeo đai ngọc, nho nhã phiên phiên, quả nhiên hiện lên khí phách của đại thần thượng quốc.

Sau khi hai người biểu diễn một phen lễ nghi phiền phức, Vương Khuê giới thiệu Phó sứ với mọi thành viên trong Đoàn thị. Nghe nói Trần Khác là Trạng nguyên của khoa thi này, người Đại Lý không khỏi ngạc nhiên và thán phục, hiển nhiên bọn họ cảm thấy người có thể thi đậu Trạng nguyên ở Thượng quốc thì đó chính là nhân vật giống như thần tiên. Điều này cũng khiến cho Vương Khuê giống như ăn phải chút dấm chua… Năm đó ông cũng có cơ hội thi đậu Trạng Nguyên, nhưng bất đắc dĩ lại bị thân phận “có quan nhân” của mình ngăn trở, mà Trần Khác cũng là người “có quan nhân”, hắn lại có thể được Hoàng thượng đặc cách ban ân, cùng một sự nghiệp nhưng mệnh số lại khác nhau, có thể đi tìm ai để trách cứ đây?

Đoàn Tư Liêm lại giới thiệu những người chủ yếu đi theo mình với sứ đoàn Đại Tống. Một người mặc trường bào màu tím cổ tròn, mặt già như trái táo khô, đó là Thái sư của Đại Lý Dương Doãn Hiền. Người đàn ông trung niên còn lại cũng ăn mặc giống như Dương Doãn Hiền, dáng người không cao nhưng tướng mạo lại vô cùng nho nhã, đó là Tướng quốc của Đại Lý Cao Trí Thăng.

Đằng sau Đoàn Tư Liêm là một cô gái xinh đẹp tuổi chừng hai mươi, có chiếc trán Nga Mi (tức là so sánh trán cao như núi Nga Mi – ta hình dung ra hơi hói “= =”), da trắng nõn nà, mặt đẹp như vẽ; trên đỉnh đầu tóc được búi thành tán như hình cánh sen, tai đeo khuyên minh châu, trên người mặc một bộ cung trang màu vàng sáng, hoàn bội đeo trên thắt lưng kêu leng keng, khí chất vô cùng cao nhã.

Vương Khuê vốn tưởng rằng đây là Vương hậu, nhưng xem phục sức thì lại không giống, nhất thời ông cũng không biết nên chào hỏi như thế nào.

- Đây là Minh Nguyệt muội muội của ta.

Đoàn Tư Liêm thấy Tống Sứ khó nén khỏi kinh ngạc, nên đành giải thích thêm một câu, nói:

- Phong tục của bỉ quốc từ xưa đến nay cũng không phân biệt nam nữ. Muội muội của ta đã ngưỡng mộ Thượng quốc từ lâu, lần này quyết tâm quấn lấy Tiểu Vương đòi tới đây xem náo nhiệt, Tiểu Vương bị nàng quấn lấy cũng đau đầu nên đành phải dẫn tới, mong rằng Quý Sứ đừng chê cười.

Sau đó y quay sang nhìn Minh Nguyệt công chúa rồi nói:

- Muội lui xuống trước đi.

- Không sao không sao.

Vương Khuê mỉm cười ngăn lại nói:

- Nhập gia tùy tục, chúng ta vào Đại Lý thì đương nhiên phải theo phong tục của Đại Lý.

- Vương huynh.

Minh Nguyệt công chúa nghe vậy cười nói:

- Rốt cuộc muội nên nghe theo ai?

- Cái này…. Đương nhiên nghe theo lời của Thượng sứ là được rồi.

Đoàn Tư Liêm cười khổ nói.

- Đa tạ Vương huynh khai ân.

Minh Nguyệt công chúa cười cười với hoàng huynh, sau đóxoay người, đoan trang hành lễ chào, nói:

- Nô gia bái kiến hai vị tướng công.

- Công chúa điện hạ không cần đa lễ, hai người chúng ta không gánh nổi cái danh ‘Tướng công” đâu!

Trước mặt nữ tử xinh đẹp như hoa như ngọc thế này, nam nhân ai nấy đều trở nên rộng lượng. Vương Khuê cười nói:

- Đó là cách xưng hô dành riêng cho Tể tướng mà thôi.

- Hai vị quý sứ sau này nhất định có thể lên làm Tể tướng mà.

Minh Nguyệt công chúa cười tươi như hoa, nói:

- Bây giờ gọi sớm một chút cũng không sao cả.

- Lại không có phép tắc gì cả rồi.

Đoàn Tư Liêm cười mắng:

- Tuy nhiên lời này của muội rất đúng đó.

Thấy hai huynh muội nói chuyện với Tống sứ khí thế ngất trời như vậy, Dương Thái Sư bên cạnh vội lên tiếng chen vào:

- Vương thượng, yến hội trong cung đã dọn xong, hay là mời các vị Thượng sứ lên Ngũ Hoa Lầu thôi.

- A, cũng tốt.

Đoàn Tư Liêm kiềm chế rất tốt, dường như bị cắt đứt câu chuyện cũng không thấy có chuyện gì cả, y khẽ vuốt râu rồi nói:

- Mời Thượng sứ lên xe…

Trong tiếng nhạc, đội nghi thức khổng lồ vây lấy đoàn xe khởi hành, Trần Khác và Vương Khuê ngồi chung trên một chiếc xe, cấu tạo của chiếc xe này giống với ngự liễn mười sáu người khiêng của Đoàn Tư Liêm, hai người nhìn ngắm phố phường Đại Lý xuyên qua bức rèm trên xe. Trong thành Đại Lý nhân khẩu đông đúc, buôn bán phồn hoa. Đường cái đều được lát gạch xanh, nhà nhà đều trồng hoa, đủ loại hồng hoa lục chỉ (hoa và cành nói chung) vươn ra ngoài tường, san sát nhau thành một con đường toàn hoa, bốn mùa hương hoa thoang thoảng tản ra khắp thành.

Hai bên đường lớn, tiếng nước chảy róc rách không ngừng, đó là nước suối Thanh Liệt, từ thượng lưu ở Thương Sơn chảy vào trong thành, chảy qua từng con phố, lách qua từng ngõ nhỏ, ghé qua cửa từng nhà, tưới hoa, tưới cây, cuốn sạch cả những hạt bụi nhỏ. Dân chúng đi trên đường thậm chí còn không cần cả đi giày.

Đúng như lời nói của Đoàn Tư Liêm, ở Đại Lý không có phong tục phân biệt nam nữ. Hiện giờ đã là cuối xuân đầu hạ, thời tiết tại Đại Lý khá là nóng, rất nhiều thanh niên nam nữ dắt tay nhau đi trên đường phố. Các nữ tử Bạch nhân xinh đẹp, đội khăn trùm đầu màu tuyết trắng, mang theo sắc thái tiên diễm, anh tuệ, trên người mặc áo màu trắng, vạt áo bó sát người, bên dưới là váy có viền thắt lưng hoa, có người đi giày thêu, có người đi chân trần, khoe đôi bàn chân nõn nà như ngọc, đi trên con đường đá sạch sẽ.

Những nữ tử Đại Lý mang theo những đường cong, dáng điệu mềm mại, tận tình khoe hết nét đẹp thanh xuân của mình. Điều này làm cho Tống sứ không khỏi nhìn không chớp mắt, cảm thấy rất hâm mộ nam tử nơi này… Kể cả khi Đại Tống còn chưa sinh ra Lý học, nhưng phục sức của nữ tử Đại Tống gần như rất bảo thủ, sẽ không nhìn thấy được cảnh tượng như ở nơi này.

Tuy nhiên sĩ phu Tống triều tuyệt đối sẽ không giống như sĩ phu Minh Thanh, ngoài miệng treo câu “Chớ nhìn phi lễ” nhưng sau đó lại len lén nhìn qua kẽ tay. Sứ đoàn Đại Tống lúc này thoải mái thưởng thức, không những vậy bọn họ còn muốn làm thơ ca để khen ngợi. Vương Khuê dâng lên cảm hứng liền làm một bài thơ:

- Độc biện minh diệt hệ hồng thao, mãn đầu vân cầm phân ngoại kiều.

Lưu tô tiếu hướng hồng nhan khuy, tấn vân ám bản lưu hải chiếu.

Khẩn tụ bạch sam nhị hải liên, giáng hồng lĩnh quái thương sơn nhiễu.

(Tạm dịch:

- Đôi bím tóc thắt lụa đỏ, trên đầu đội khăn hoa.

Nhìn trộm hồng nhan, tóc mây chảy dài như suối.

Tay áo trắng như Nhị Hải, áo khoác đỏ như Thương Sơn.)

- Xem ra Vương công định “Nhất đoạn giang sơn nhất đoạn tình, lưu thủ di ái tại ngọc kinh”.

(Tạm dịch:

- Một đoạn giang sơn một đoạn tình, tình này xin gửi lại Ngọc Kinh –đại loại là lập thiếp phòng tại “địa bàn” ấy)

Trần Khác mỉm cười trêu ghẹo:

- Tuy nhiên, cô nương ở đây tính tình rất mãnh liệt đó, cẩn thân các nàng sẽ đuổi theo ngươi đến tận thành Biện Kinh.

- Hả?

Vương Khuê cười khổ nói:

- Vậy thì cũng cần phải cẩn thận một chút rồi.

Buổi ngọ yến đón chào sứ đoàn Đại Tống được tổ chức ở Ngũ Hoa Lầu bên trong Hoàng Cung. Đô thành Đại Lý tuy rằng chỉ lớn bằng một nửa Đại Tống, nhưng Hoàng cung lại có khí thế còn hơn cả Đại Tống. Đương nhiên, Hoàng cung Đại Tống là quá sức keo kiệt rồi. Chỉ thấy vô số mái vòm cung điện kim bích rực rỡ huy hoàng, dựa vào thế núi xuất hiện tầng tầng lớp lớp, trong đó cao nhất là một tòa tháp năm tầng, đó chính là Ngũ Hoa Lầu, là nơi Hoàng đế Đại Lý chiêu đãi khách quý, quần thần.

Đoàn Tư Liêm mời Tống sứ lên lầu, trên lầu cao nhất có danh ca mỹ nhạc, hai hàng phấn hồng xinh đẹp hai bên, yến hội chia làm hai hàng, cũng là một nửa thức ăn chay, một nửa thức ăn mặn.

Thấy Tống sứ có vẻ cảm thấy kỳ lạ, Đoàn Tư Liêm giải thích:

- Bỉ quốc cả nước tin Phật, trong một năm thì cũng có nửa năm trai giới, hiện giờ còn chưa khai trai đâu.

Nói xong, y mời Vương Khuê ngồi vào vị trí rồi nói:

- Thượng sứ cứ thoải mái hưởng dụng, tuy rằng ta đang ăn chay nhưng lại không kiêng rượu, đương nhiên sẽ không ngại hầu tiếp.

Mọi người phân ra chủ khách, dựa theo quan phẩm mà ngồi, cùng với vũ đạo duyên dáng của Đại Lý, liên tục nâng chén, chúc Đại Tống quốc thái dân an, chúc Hoàng đế Đại Tống vạn thọ vô cương, chúc trăm họ Đại Tống an nhạc vô ưu. Sau đó chúc tới một lượt quốc, quân, dân Đại Lý, rượu này xem như đã khai vị.

Vương Khuê đặt chung rượu xuống rồi nói:

- Vương thượng, lần này Hoàng đế Đại Tống ta sai sứ thần đến, một là ân cần thăm hỏi Vương thượng, hai là muốn tìm người…

- Thượng sứ từ xa tới, một đường đi lại đã mệt nhọc rồi, hôm nay chỉ uống rượu thưởng nhạc thôi, nghỉ ngơi cho tốt, ngày mai hẵng bàn đến việc quốc sự đi!

Đoàn Tư Liêm khẽ mỉm cười phất phất tay, đại thần văn võ Đại Lý liền tranh nhau đi lên mời rượu, Vương Khuê bất đắc dĩ đảnh phải tạm gác lại chuyện chính sự, ứng phó với văn võ đại thần của Đại Lý.

Vương Khuê cũng không có tửu lượng cao, chỉ chốc lát sau đã say rồi, Đoàn Tư Liêm liền ra lệnh đưa Thượng sứ đến Lễ quán để nghỉ ngơi.

Sáng thứ hai, có hoạn quan trong nội cung tới nhà đón khách, mời Thượng sứ vào cung nói chuyện.

Vương Khuê và Trần Khác cùng nhau vào cung, đi đến Ngự Thư Phòng của Đại Lý, hai người lại thấy Đoàn Tư Liêm mặc một thân quan phục của Đại Tống.

- Quan phục của Tống triều thật là đẹp mắt.

Thấy hai người đang nhìn quan phục của mình, Đoàn Tư Liêm cười ha hả nói:

- Tiểu Vương thực hận không thể được mặc mỗi ngày.

Vương Khuê và Trần Khác liếc nhìn nhau, thầm tự nhủ vậy là rõ rồi. Bất quá mục đích của bọn họ chính là đến đây để dụ dỗ gian dâm đấy, làm sao lại phải ngại tiếp y? Vương Khuê cười nói:

- Nếu Vương thượng vừa ý thì hạ quan có thể tâu lên Hoàng thượng ban thưởng mấy bộ quan phục cho Vương thượng.

- Đây đúng là điều Tiểu Vương đã chờ đợi nhiều năm rồi.

Ánh mắt Đoàn Tư Liêm nóng bỏng nhìn Vương Khuê như có lửa:

- Không những chỉ là Tiểu Vương, đây cũng là điều mà mấy đời tiên đế đã chờ đợi từ lâu rồi.

- Chuyện này thì có đáng gì đâu?

Vương Khuê cười nói:

- Trước kia triều đình không biết đến Đại Lý, vẫn cho rằng nơi đây chỉ là một quốc gia man di. Nhưng mắt thấy mới là thật, hạ quan và đồng liêu đều có thể chứng minh giúp cho Vương thượng, Đại Lý là thật tâm thủ lễ với Hoa Hạ, Hoàng thượng Đại Tống ta nhất định sẽ không để cho Vương Thượng phải thất vọng.

- Nhưng việc này không phải chỉ một mình Tiểu Vương có thể làm chủ được.

Đoàn Tư Liêm thở dài nói, sau đó mời hai người ngồi xuống bồ đoàn, tự mình châm trà cho họ:

- Mục đích của Thượng sứ hôm nay tới, Tiểu Vương cũng có thể đoán ra được vài phần, chắc hẳn là vì Mã Chí Thư kia. Đương nhiên Tiểu Vương sẽ nguyện ý hiệp trợ quý sứ, tróc nã lão về quy án. Nhưng hiện giờ lão đã chiếm giữ Đặc Ma Trại, là địa bàn của ba mươi bảy bộ tộc Hắc nhân, thực lực man tộc đó khá mạnh, luôn luôn không phục Vương hóa, Tiểu Vương cũng không thể tránh được.

Vương Khuê đang định nói, hoạn quan nội cung đã tiến vào bẩm báo:

- Chủ thượng, Thái Sư và Tướng Quốc tới…

Nghe nói hai lão quỷ đã tới nhanh như vậy, ánh mắt của Đoàn Tư Liêm hiện lên vẻ bất đắc dĩ, nhưng rất nhanh đã điều chỉnh lại như cũ, rồi nói:

- Cho vào!

Sau đó gã cởi Điêu Thiền quan trên đầu xuống, ở dưới đã quấn sẵn khăn vấn đầu, sắc mặt khó xử nói với Tống sứ:

- Tiểu Vương đối với hai kẻ bảo thủ này thật sự không có biện pháp nào. Bọn họ vẫn cảm thấy hình như Thượng quốc đang có mưu đoạt cái gì đó. Làm phiền Thượng sứ giải thích lại yêu cầu của Đại Tống cho bọn họ nghe một chút.

Vương Khuê và Trần Khác trao đổi ánh mắt với nhau, người lăn lộn ra từ trong triều đường Đại Tống, chơi tâm kế đã quá quen rồi, làm sao lại không nhìn ra được đây là Đoàn Tư Liêm đã cố ý sắp xếp từ trước.

Vì thế hai người đều bất động thanh sắc, yên lặng theo dõi kỳ biến.

Chỉ chốc lát sau, hai lão già đầu đội mũ quan, khoác áo bào tím tiến vào, Dương Thái Sư cười ha ha nói:

- Già rồi nên đi đứng đều chậm, để Chủ thượng và Thượng sứ phải đợi lâu.

Cao Tướng Quốc chỉ mỉm cười thi lễ, không nói gì cả.

- Không muộn đâu, ngồi đi.

Đoàn Tư Liêm khoát tay chặn lại, sau đó hoạn quan nội cung lại đưa lên hai cái bồ đoàn.

Hai người ngồi xuống, vừa khéo đối diện với Vương Khuê và Trần Khác, Đoàn Tư Liêm lúc này ngồi một mình trên đầu, trở thành người lớn nhất, gã thong thả nói với hai quyền thần:

- Thượng sứ vừa mới nói rõ lý do đến đây, đó là vì tung tích của một người tên Mã Chí Thư, các ngươi đã từng nghe nói đến người này chưa?

Đây tuyệt đối là chơi khó nhau rồi, Trần Khác và Vương Khuê cùng âm thầm thở dài ra một hơi, Đoàn Tư Liêm mang vẻ mặt người tốt bên ngoài nhưng quả nhiên là không phải lương thiện gì cả!

Tuy nhiên, ngẫm lại thì cũng phải thôi, mỗi ngày đều phải đấu đá với các lão quỷ này, chỉ cần không phải là thằng ngốc cũng có thể luyện thành tinh được.

- Cái tên này nghe rất quen...

Dương Thái Sư vê vê chòm râu của mình đáp trước:

- Tướng Quốc, ngài thấy như thế nào?

- Đúng.

Cao Trí Thăng cũng đáp:

- Có chút ấn tượng.

- Họ Mã này rất đặc biệt.

Dương Doãn Hiền chậm chậm nói:

- Ta nhớ hình như trong ba mươi bảy bộ tộc của Điền Đông có một bộ tộc họ Mã.

- Đúng.

Cao Trí Thăng gật đầu nói:

- Đúng là có một bộ tộc như vậy.

- Mã Chí Thư kia có phải người của Mã tộc?

- Mã Chí Thư không phải là một người trong Mã tộc.

Trần Khác không có hứng ở đây nghe bọn họ tung hứng, lên tiếng cắt lời:

- Lão là thủ lĩnh Quảng Nam Tây Lộ Quảng Nguyên Châu Man tộc của Đại Tống ta. Bốn năm trước lão đã tạo phản xưng Đế, gây họa cho hai vùng Quảng Nam của Đại Tống, sát nghiệp vô số. Sau đó Triều đình triệu tập đại quân tiễu phỉ, nhưng phát hiện ra trong Hoàng cung giả của lão chỉ có một cỗ thi thể đã hoàn toàn cháy đen mặc Long bào.

- Sau đó lão đã mai danh ẩn tích mấy năm, nhưng Triều đình chưa bao giờ lơi lỏng việc điều tra về lão.

Nói tới đây, ánh mắt của Trần Khác sắc như dao liếc nhìn Cao Tướng Quốc, nói:

- Sau khi chúng ta điều tra lại, phát hiện ra lão đang trốn tránh ở một nơi tên là Đặc Ma Đạo, nhưng vì vẫn chưa đánh hạ được Quảng Nguyên Châu nên triều đình vẫn không thể động thủ được với lão.

- Đặc Ma Đạo kia không phải là đất phong của Mã tộc sao?

Đoàn Tư Liêm giật mình nói.

- Chúng ta mặc kệ nó là địa bàn của bộ tộc nào, chỉ cần quan tâm đến việc Mã Chí Thư đang trốn tránh ở đâu. Tuy nhiên đầu năm nay, tộc đệ của Mã Chí Thư là Mã Ái Bằng, liên tục mấy năm đã bị triều đình quét sạch, y đã dẫn Man tộc Quảng Nguyên Châu đầu hàng. Cuối cùng thì triều đình cũng đả thông được đường đi tới Điền Đông.

Trần Khác nói với bọn họ bảy phần thực ba phần giả:

- Hiện giờ Đại tướng của triều ta là Dương Văn Quảng, cùng với mấy người Tiêu Cố đã tập kết đại quân, chuẩn bị bất cứ lúc nào cũng có thể xuất phát tiễu trừ phản tặc.

Dừng một lát, hắn nhìn mấy quân thần Đại Lý đang bị dọa cho mặt cắt không còn giọt máu, sau đó mới nói tiếp:

- Nhưng Đại Tống ta là nước có lễ nghĩa, Đại Lý cũng không phải là nước phụ thuộc của chúng ta, cũng không phải là địch quốc. Vì vậy Hoàng thượng phái ta tới đây nhờ quý quốc hỗ trợ chúng ta tróc nã người này… Hoặc là mở ra biên cảnh Điền Đông để chúng ta có thể tự động thủ.

Trần Khác nói một hồi khiến cho tất cả mọi người ngồi đây đều toát mồ hôi, kể cả Vương Khuê, lão tự nhủ trong lòng:

- Tiểu Trần ơi Tiểu Trần, ngươi cũng thổi phồng sự việc quá đáng rồi đấy. Triều đình quả thật đã đóng quân ở biên cảnh, nhưng làm sao có thể chuẩn bị động võ được?

Nhưng lúc này, lão nên cùng Trần Khác đứng chung một phía, khi quân thần Đại Lý nhìn đến lão, mặt Vương Khuê không chút đổi sắc, nhẹ nhàng gật gật đầu.

- Sự tình không ngờ đã đến tận mức này rồi.

Quân thần Đại Lý chột dạ nhìn nhau, ban đầu bọn họ chỉ biết quân đội Đại Tống tới tập kết ở đất Thục, nhưng không thể ngờ được phía Đông cũng đã tập trung binh lực. Vì một Mã Chí Thư mà lại phải đại động can qua sao? Chỉ sợ đây là kế “mượn đường phạt Quắc”, sau đó sẽ chiếm cả Đại Lý luôn.

Khoảng cách địa lý cũng tương đối cản trở khá nhiều mặt. Tựa như Đại Tống không biết rõ ràng lắm về Đại Lý, Đại Lý cũng chẳng hiểu nhiều về Đại Tống. Hiện giờ nếu phái thêm ra nhiều thám tử hơn nữa thì cũng chỉ có thể phát hiện ra được, đúng là Đại Tống đã tập trung quân đội ở hai mặt biên cảnh, nhưng lại không thể phát hiện ra được Tống triều chỉ đang phô trương thanh thế mà thôi.

Trần Khác đã nắm lấy điểm quan trọng này, hung hăng uy hiếp quân thần Đại Lý một chút để có thể nắm lấy quyền chủ động. Sau khi thấy sắc mặt của ba con hồ ly Đại Lý không còn thong dong như lúc đầu nữa, hắn lại tăng giá lên, nói:

- Theo thẩm tra thì quan hệ của Mã Chí Thư và nước Đại Lý không phải là ít. Lúc trước, từ khi phụ thân lão bị giết, lão vẫn dựa vào lực lượng của Đại Lý để đoạt lại Quảng Nguyên.

- Không có chuyện này!

Đoàn Tư Liêm không nghĩ tới, vị Phó sứ Đại Tống này và vị Chính sứ tiên sinh dễ mến kia hình như lại hoàn toàn tương phản với nhau, hắn đúng là một nhân vật hung hăng dọa người. Đoàn Tư Liêm vội vàng thề thốt phủ nhận:

- Đại Lý ta không bao giờ quản đến việc của nước khác, chứ đừng nói gì đến việc Quảng Nguyên Châu thuộc về cảnh nội của Đại Tống.

Dừng một lát, gã nhìn sang Cao Trí Thăng rồi nói:

- Tướng Quốc, việc này có phải do Mã tộc tự tiện hành động không?

- Chắc là không phải...

Cao Trí Thăng bất động thanh sắc, gật đầu nói:

- Sau khi quay về, thần sẽ viết thư tra hỏi kỹ chuyện này.

- Đương nhiên là phải tra rồi.

Đoàn Tư Liêm trầm giọng nói:

- Bảo bọn họ thành thật khai báo quan hệ với Mã Chí Thư, nếu đang dung nạp người này thì nhất định phải lập tức giao ra, bằng không thì chuẩn bị mà đợi tai họa ngập đầu đi.

- Vâng.

Cao Trí Thăng ứng tiếng, nói.

- Cần thời gian bao lâu?

Trần Khác hỏi.

- Đúng vậy, dù sao cũng phải đưa ra một kỳ hạn cho Tống sứ đi.

Đoàn Tư Liêm lệnh.

- Một tháng!

Cao Trí Thăng đề nghị.

- Quá dài!

Trần Khác lắc đầu nói:

- Thời gian đưa thư qua lại thì mười ngày là đủ rồi, ta chỉ cần thông tin chính xác, có hay không có. Nếu Tướng quốc cảm thấy không nỡ dứt tình thì… có thể giao cho Đại Tống ta động thủ.

- Mười ngày thì mười ngày vậy.

Trán Cao Trí Thăng đầy mồ hôi, cười ha hả nói:

- Không cần Thượng sứ phải động thủ, không cần Thượng sứ phải động thủ.

- Không cần chúng ta phải động thủ là tốt nhất.

Trần Khác gật đầu nói:

- Nhưng khi chúng ta đã phải động thủ thì cũng sẽ không hàm hồ đâu.

Một hồi hội đàm khó có thể nói là dễ chịu xem như đã xong, Vương Khuê và Trần Khác đứng dậy cáo từ, ra khỏi Hoàng cung. Sauk hi hai người quay về chỗ thị vệ của mình, Vương Khuê lắc đầu nói:

- Lúc nãy ngươi cũng dám nói như vậy, không sợ da trâu thổi to quá thì sẽ bị nổ sao, chẳng lẽ không có cách nào khác sao?

- Làm gì còn có cách nào nữa, ai bảo Đại Tống của chúng ta không có thực lực.

Trần Khác khoanh tay lại rồi nói:

- Cũng may quân thần Đại Lý đều có mục đích riêng của mình cần phải đạt được, vì vậy bọn họ bị chia năm xẻ bảy, cũng không có can đảm lấy cứng đối cứng với Đại Tống ta.

Nói xong, hắn lại cười khổ một tiếng:

- Trong tay mọi người đều là mấy thanh chiêu bài đã mục nát cả rồi, không đủ cứng rắn nữa, chỉ có thể dùng cách “Ngươi lừa, ta gạt”, xem ai lừa dối được ai mà thôi!

- Ngươi nói mười ngày sau sẽ có kết quả như thế nào?

Vương Khuê hỏi:

- Bọn họ có thể nói với chúng ta là Mã Chí Thư đã bỏ chạy không?

- Cao Trí Thăng kia khẳng định đang hy vọng như vậy, nhưng Đoàn Tư Liêm và Dương Doãn Hiền chẳng lẽ sẽ đồng ý phối hợp với lão sao? Ta không thấy thế.

Trần Khác lắc đầu nói:

- Nói trắng ra thì nếu ba người quân thần Đại Lý này đoàn kết một lòng, chúng ta thực sự cũng không có biện pháp nào.

- Bọn họ có thể đồng lòng đối phó với người ngoài không?

Vương Khuê hỏi.

- Sẽ không đâu.

Trần Khác rất khẳng định nói:

- Vương công, ba nhà này nhìn như cân sức ngang tài, hình thành nên thế chân vạc, nhưng trên thực tế thì nếu không có ngoại lực quấy rối, kết quả cuối cùng tám phần mười là Cao gia sẽ thắng… Dương gia và Đoàn gia có mối thù truyền kiếp. Chỉ cần Cao gia không có hành động thiếu suy nghĩ, hai nhà kia sớm muộn gì cũng sẽ đánh nhau. Đến lúc đó bất kể ai thắng ai thua thì thực lực của Bạch man đều sẽ suy giảm rất nhiều, Ô man sẽ trở thành mạnh nhất. Đến lúc đó, bất kể là việc uy hiếp thiên tử, ra lệnh chư hầu hay là thay thế hẳn vị trí Thiên tử, đều tùy ý của Cao gia rồi.

- Đúng vậy.

Vương Khuê gật đầu nói:

- Nói rất đúng.

- Điều này, người ngoài như chúng ta nhìn một cái là có thể hiểu được, Đoàn thị và Dương thị cũng không phải là không biết, nhưng Dương thị đã vất vả, khó khăn để đi được tới như ngày hôm nay, làm sao bọn họ có thể từ bỏ ý định được? Chẳng lẽ vẫn tiếp tục cúi đầu xưng thần với Đoàn thị? Hiển nhiên là không thể! Cho nên chúng ta xuất hiện lúc này, đối với Dương gia mà nói thật sự giống như cơn mưa giữa ngày hạn. Bọn họ khẳng định sẽ muốn mượn cơ hội này để phế bỏ Cao thị, từ đó có thể chuyên tâm tranh bá với Đoàn thị.

Đêm đó, trong thuyền đi trên Nhị Hải, những lời Dương Nghĩa Trinh kia nói không ngờ đã làm bại lộ ý đồ này của Dương gia.

- Đối với Đoàn gia lại càng như vậy, Cao-Dương hai nhà đều mơ đến ngai vàng của gã, chẳng lẽ lại không mượn cơ hội này để mưu họa một phen?

Trần Khác vẫn không biến sắc, tiếp tục phân tích:

- Đợi đến khi chúng ta vừa đi, gã cũng chỉ có thể ngồi xem thế cục lại bị tổn hại thêm một bước. Ngài nói, bọn họ có thể một lòng được sao?

- Không thể!

Vương Khuê bị thuyết phục rồi, cười cười nói:

- Vậy chúng ta sẽ chờ mười ngày sau xem sao.

Trong Hoàng cung Đại Lý.

Ngay trước mặt Tống sứ thì Đoàn Tư Liêm xưng Vương, nhưng khi Tống sứ không có ở đó, gã đã sửa thành Hoàng thượng.

Nhìn hai lão quyền thần, gã nói:

- Lời của Tống sứ, các ngươi đều đã nghe rõ. Vì một Mã Chí Thư mà phải đối nghịch với cả Đại Tống triều, điều này đáng sao?

Lời này đương nhiên là nói cho Cao Trí Thăng nghe, lão không nhanh không chậm đáp:

- Nếu Mã Chí Thư chỉ là một người thì lão thần sẽ lập tức giao lão cho Tống sứ. Nhưng mấy năm nay lão ở Đặc Ma Đạo nghỉ ngơi dưỡng sức, tập trung tộc nhân lên tới năm sáu ngàn người, trong đó quân đội có thể chiến đấu đã lên tới hơn hai ngàn người. Hơn nữa còn có bảy tám ngàn Mã binh của Mã tộc, đây là gần một vạn binh lính đó. Thêm vào đó, Mã binh còn dũng mãnh thiện chiến, dựa vào vạn người không thể tiến vào trong sơn trại của bọn họ, Bệ hạ tính xem cần bao nhiêu người để tiễu trừ chúng?

- …

Đoàn Tư Liêm nhìn Dương Doãn Hiền, Dương Doãn Hiền liền nói:

- Nào có đáng gì? Ba nhà chúng ta xuất ra mười ngàn binh, bất ngờ đánh lão. Ta cũng không tin Mã tộc có thể vì một mình Mã Chí Thư mà lại muốn huyết chiến với chúng ta.

Đây đúng là kế khả thi, nhưng đối với Cao thị sẽ là sự đả kích quá mạnh… Không chỉ có Mã tộc sẽ hận chết Cao gia, các bộ tộc còn lại cũng sẽ không tín nhiệm một kẻ đã bán đứng thủ lĩnh của mình.

Lòng người tan thì đội ngũ làm sao có thể đứng vững? Đây là khổ não lớn nhất của Cao Trí Thăng… Ba mươi bảy bộ tộc Ô man, từ nhân số đến sự dũng mãnh thì Bạch man không thể nào sánh kịp, kể cả Dương thị và Đoàn thị liên hợp lại cũng không phải là đối thủ. Nhưng tại sao thống trị Đại Lý vẫn cứ là người Bạch man chứ không phải là người Ô man? Đáp án là trong ba mươi bảy bộ tộc này, đỉnh núi san sát, mỗi người đều có tâm tư của riêng mình, gặp chuyện thì không thể kết thành một thể, đương nhiên không thể nào chung sức được.

Giữa một đám hộ vệ vây quanh, Cao Trí Thăng rời khỏi ngự thư phòng, lên xe ngựa. Cao Thăng Thái lập tức đóng cửa xe, ngồi trước mặt lão hỏi:

- Phụ thân, đàm phán ra sao rồi?

- Dương Doãn Hiền cũng theo Đoàn Tư Liêm tạo áp lực, muốn chúng ta giao người.

Cao Trí Thăng thở dài nói:

- Lúc trước ta nhất thời có tham niệm, tiếp nhận Mã Chí Thư, vốn tưởng rằng sẽ như hổ thêm cánh, ai ngờ lại rước lấy thiên đại phiền toái này.

Nói xong, lão lại tiếp tục nói cho nhi tử nghe cái tin Tống triều đã tập kết quân đội ở Tây lộ Quảng Nam.

- Nếu như chỉ vì mầm họa này kéo theo chúng ta phải chết thì thật không đáng chút nào.

Cao Thăng Thái hạ giọng nói:

- Bất quá, địa vị của lão trong Mã tộc rất cao, chúng ta cũng không nên làm quá tuyệt tình, bằng không thì lão sẽ bỏ trốn tới Bồ Cam.

Bồ Cam chính là Tây bộ Miễn Điện (Myanmar), thuộc vùng biên giới phía đông của Đại Lý.

- Cũng chỉ có thể như thế.

Lão trầm ngâm một lát, sau đó gật đầu nói:

- Bên phía Tống sứ thì vi phụ không tiện ra mặt. Chín ngày sau, con thay ta mở tiệc chiêu đãi bọn họ một chút, rồi nói tình hình Mã Chí Thư đã chạy trốn, sau đó tăng gấp mười lần số tiền định biếu ban đầu lên, lúc này đã đến lúc phải đánh nước rút rồi.

- Cái giá phải trả thực sự quá lớn.

Cao Thăng Thái chán nản nói.

- Có thể tiễn bước đám ôn thần này đi được thì chúng ta có hao phí thêm nhiều tiền hơn nữa cũng vẫn đáng. Ta thấy Đoàn Tư Liêm còn chưa chết ý niệm quy thuận Tống triều ở trong đầu, hôm nay gã lại mặc một bộ áo choàng của người Tống để gặp khách, điểm tâm tư này của gã chẳng lẽ còn giấu được ai? Nếu thật sự để gã quy thuận được với Tống triều thì người được ngồi nhìn hai hổ đấu nhau cũng không phải chúng ta nữa rồi.

- Chuyện này chắc hẳn là Dương gia còn gấp hơn chúng ta ấy.

- Đúng vậy, nếu Đoàn gia dựa được vào Tống triều thì Dương Doãn Hiền làm sao có thể tiếp tục diễn vở tuồng khôi phục ngai vàng của lão?

Cao Trí Thăng vuốt cằm nói:

- Xét về điểm này thì chúng ta và Dương gia là nhất trí. Vì vậy cho nên chúng ta vẫn cứ phải tiếp tục giả bộ làm người tốt, để mặc cho hai phụ tử Dương Doãn Hiền ra tay giải quyết vấn đề này đi.

Trong Hoàng cung, sau khi tiễn hết các lộ thần tiên đi khỏi, Đoàn Tư Liêm khoanh chân ngồi trên bồ đoàn, tay lần tràng hạt, chìm vào trầm tư.

Lý do gã hy vọng dựa được vào Đại Tống triều càng sớm càng tốt chính là vì cảm giác sợ hãi từ tận trong xương tủy này… Mặc dù xưa nay Hoàng đế Đại Lý cũng không thể duy ngã độc tôn, nhưng sống uất ức như gã thì thật sự là chỉ có một không hai. Vì vậy, ngai vàng Hoàng đế không nên là gã ngồi lên.

Ngôi vị Hoàng đế Đại Lý kế thừa cũng từng trải qua một giai đoạn giống như điển tích “Chúc ảnh phủ thanh” giống như Tống triều. Khai quốc Thái Tổ Đoàn Tư Bình trong quá trình giành chính quyền lại quá nể trọng đệ đệ Đoàn Tư Lương, kết quả thành ra quyền bính của Đoàn Tư Lương trở nên quá lớn. Tới khi Đoàn Tư Bình vừa chết, Đoàn Tư Lương lập tức cùng với Đổng thị mượn cớ phế đi chất tử của mình, sau đó tự mình lên làm Hoàng đế Đại Lý.

Từ sau khi Đoàn Tư Lương lên ngôi, đế vị luôn do nhất mạch của Đoàn Tư Lương truyền lại, tử tôn của Đoàn Tư Bình đương nhiên cũng giống như tử tôn của Thái Tổ Hoàng đế, luôn luôn bị xa lánh và đề phòng đủ đường.

Cho tới khi ngai vàng bị rơi vào tay Thiên Minh Hoàng đế Đoàn Tố Hưng, vì lý do “Cả ngày buông thả, hoang dâm vô độ” nên kết quả đã bị tướng quốc Cao Trí Thăng phế bỏ, sau đó đưa huyền tôn của Đoàn Tư Bình – chính là Đoàn Tư Liêm lên làm đế. Từ đó, Đế hệ lại một lần nữa quay về nhất mạch của Thái tổ.

back top