Chương 9
Dịch giả: Lioncoeur
Con khỉ đầu chó lao tới ngay khi họ trở ra hành lang – và ra đi một cách hoành tráng, khẩu súng săn hai nòng bắn nó vỡ sọ với một tiếng nổ đinh tai. Billy nạp lại đạn mới với viên còn lại duy nhất. Anh nhớ là mình còn nhiều, nhưng có lẽ đã bị rớt mất đâu đó dọc đường. Dù sao cũng chẳng có gì khác chặn đường họ nữa, và cả hai quay lại căn phòng lớn. Billy có một cảm giác nhẹ nhõm mà đã lâu anh không có. Bên cạnh trận cười hết mức, như để thư giãn giữa những sự kiện hỗn độn mà họ dính vào, đây còn là lần đầu anh thổ lộ tâm sự với một người thật lòng muốn nghe, một người tin rằng anh nói sự thật. Họ dừng chân chỗ cái tượng đài lớn bằng đá giữa căn phòng thênh thang, nhìn quanh quất. Quanh bệ là sáu con vật tạc tượng, mặt hướng ra ngoài, mỗi con có một tấm thẻ bài gắn phía trước, bên cạnh mỗi tấm là một ngọn đèn dầu nhỏ. Những con vật được chạm khắc cực kỳ điêu luyện, nhưng chỉ càng làm nổi bật thêm tính chất kỳ quái, nếu không muốn nói là thật sự chướng mắt.
Sinh vật trước mặt anh là một con đại bàng đang bay, dưới móng vuốt quắp chặt một con rắn. Anh đọc lớn tấm thẻ. ”TA TỰ DO BAY LƯỢN GIỮA KHÔNG TRUNG, SĂN BẮT CON MỒI KHÔNG CHÂN.” Anh cau mày, chuyển sang đọc tấm thẻ kế bên, của một con hươu. “TA ĐỨNG CHỄM CHỆ TRÊN MẶT ĐẤT VỚI CẶP SỪNG NGẠO NGHỄ PHÔ BÀY.”
Rebecca rảo bước quanh những mẫu vật nghệ thuật không đúng chỗ, chợt thấy một cánh cổng thép bắt chặt vào vách tường phía sau. Cánh cổng chắn lối vào một hành lang ngắn, có hai ô cửa nằm dọc theo vách. ”Ở đây có ký hiệu, nó nói” cô quay lại nhìn chăm chú những con vật. ”đại để là dùng mấy ngọn đèn để đánh dấu từ con yếu nhất đến con mạnh nhất. Một bài toán đố.” Cô nắm lấy một thanh thép của cánh cổng, lắc mạnh. ”Chắc để mở cái cửa này.”
”Tức là phải thắp sáng mấy ngọn đèn theo thứ tự, bắt đầu từ con yếu nhất,”Billy nói. Thật ngu ngốc. Sao lại phải đâm đầu vào mấy cái rắc rối này cơ chứ… Anh lôi bàn đồ ra khỏi túi, nghiên cứu nó. ”Dường như có vài căn phòng chỗ đó. Tôi không thấy lối ra.”
Rebecca nhún vai. ”Ừ, nhưng có thể chúng ta tìm được gì đó. Liệu nó có gây tổn hại gì không nhỉ?”
”Tôi không biết,” anh thật thà trả lời. ”Biết đâu đấy.”
Cô cười cười rồi quay sang bức tượng gần nhất, một con cọp, đọc tấm thẻ bên cạnh. “TA LÀ VUA CỦA VẠN VẬT: KHÔNG AI THOÁT ĐƯỢC KHI TA MUỐN BẮT.”
Billy đi sang trái, tới một con rắn đang cuộn quanh nhánh cây. ”Cái này nói, TA LẶNG LẼ TRƯỜN QUA NẠN NHÂN BẰNG CƠ THỂ KHÔNG CHÂN, KHUẤT PHỤC NHỮNG VỊ VUA MẠNH MẼ NHẤT BẰNG CHẤT ĐỘC.”
Rebecca đọc to lên hai cái cuối – bên dưới một con sói có dòng chữ, TRÍ TUỆ SẮC SẢO CỦA TA CÓ THỂ HẠ GỤC NGAY CẢ NHỮNG SÚC VẬT CÓ SỪNG VĨ ĐẠI NHẤT.
Tượng cuối cùng là một con ngựa, đang trong tư thế chồm lên. Chữ khắc bên dưới nó ghi là, BAO NHIÊU TRÒ GIAN TRÁ CŨNG KHÔNG NHANH BẰNG VÓ NGỰA THẦN TỐC CỦA TA.
Súc vật có sừng. Billy quay lại con hươu, đọc lại phần “cặp sừng ngạo nghễ phô bày.”
”Nghĩa là sói mạnh hơn hươu,” anh nói.
”Và nếu gian lận cũng không đuổi kịp ngựa, thì ngựa tất phải mạnh hơn sói,” cô nói. ”Thứ gì mạnh hơn rắn nhỉ?”
”Hẳn là đại bàng, nó quắp được rắn.”
Họ rảo bước quanh tượng đài, đọc lên những gì ghi trên đó, cân nhắc bài toán. Sau khi đã đồng ý về thứ tự, Billy bước đến từng con vật, lần lượt thắp sáng những ngọn đèn dầu – từ yếu nhất đến mạnh nhất, dĩ nhiên chỉ là với những bức tượng này thôi, con kém nhất là hươu, rồi sói, ngựa, hổ, rắn, và đại bàng.
Ngay lúc anh thắp xong ngọn đèn của đại bàng, một âm thanh nặng nề của máy móc phát ra đâu đó bên trong những bức tượng – và cánh cổng thép phía sau nhẹ nhàng kéo lên, trượt vào trong cái rãnh phía trên mái vòm.
Hai người dấn bước vào hành lang. Căn phòng đầu tiên bên tay phải, khi nhìn sơ qua thì thấy nó chẳng có gì đáng giá. Chỉ có một chồng thùng gói hàng trống không, vài cái kệ xếp lộn xộn. Billy chuẩn bị bỏ qua thì Rebecca bước về phía đống thùng. Có một cái quay lại phía cửa nên họ không thể thấy được có gì trong đó – và khi bước vòng qua, cô bật cười hào hứng, đồng thời cúi xuống bên cạnh cái thùng, xoay nó lại cho Billy thấy. Anh bước nhanh tới cạnh cô, cảm giác giống như một đứa trẻ được nhận quà Giáng sinh. Câu đố chết tiệt ấy cũng đáng giá quá chứ.
Có hai hộp rưỡi loại đạn cỡ chín ly. Còn lại nửa hộp, loại hộp hai mươi hai viên, cỡ.50, thì không mấy hữu ích với loại súng nạp băng đạn – nó được thiết kế cho súng lục ổ quay. Nhưng một hộp mười bốn viên đạn súng săn thì quá tuyệt. Billy không thể không nghĩ tới một khẩu bazooka, nhưng với những gì thu thập được thì họ không thể mong chờ gì hơn.
Cả hai mất vài phút để nạp lại đạn. Rebecca tìm được trên kệ một cái ba lô đã hỏng khóa kéo, rồi tống hết mọi thứ vào đó và vào đai lưng của cô; họ đồng ý là nên mang nó theo, để có đủ chỗ chứa trong trường hợp tìm được thêm vũ khí. Billy nhặt một cái ghim băng dưới sàn để thay thế dây kéo cho ba lô, cảm thấy an tâm với sức nặng của mớ đạn.
”Tôi đến phải hôn cô mất,” anh vừa nói vừa bồng khẩu súng săn lên – và khi thấy im lặng, anh quay lại nhìn, thấy cô hơi đỏ mặt. Cô quay đi chỗ khác, xốc lại đai lưng.
”Tôi không định nói theo nghĩa đen,” anh chữa lại. ”Ý tôi là, không phải cô không hấp dẫn, nhưng cô – Tôi – Ý tôi là – “
”Thôi đừng ấp úng nữa,” cô nói mát mẻ. ”Tôi biết anh định nói gì mà.”
Billy gật đầu nhẹ nhõm. Họ đã kết hợp với nhau đủ nhiều để không nghĩ tới cái chuyện nam nữ. Mặc dù cô ta cũng khá xinh.
Anh dẹp ý nghĩ đó đi, tự nhắc nhở là mình chỉ mới đoạn tuyệt với đàn bà có một năm – lúc này chưa tới mức phải nghĩ tới chuyện đó.
Hai người chuyển sang ô cửa thứ hai, thấy nó không khóa. Đây là một phòng ngủ tồi tàn và bẩn thỉu, mấy cái giường làm bằng gỗ dán nằm xếp lớp, vài cái mền rải rác xung quanh trông xơ xác và cáu bẩn. Với những tiện nghi tồi tàn thế này, cùng với cánh cổng thép khóa kín ngoài hành lang, Billy có thể đoan chắc rằng những người ở đây không hề tình nguyện. Rebecca có nói với anh về quyển nhật ký, về những đối tượng thử nghiệm vốn là người…
Cả căn cứ này làm anh thấy sởn gai ốc. Họ phải thoát ra ngoài càng nhanh càng tốt.
”Chúng ta đi lên hay xuống bây giờ?” Rebecca hỏi khi họ quay trở ra hành lang.
”Có một đài quan sát trên lầu à?” Billy hỏi. Rebecca gật đầu. ”Vậy đi quan sát thử xem. Biết đâu có thể phát tín hiệu cầu cứu không chừng.”
Billy chợt nhận ra mình vừa gợi ý gọi hỗ trợ, nhưng anh không hề đổi ý, cho dù biết cái gì đang chờ mình nếu điều đó xảy ra. Anh thà chết trong cuộc chiến sống còn chứ không muốn bị hành quyết… Nhưng Rebecca thì khác. Cô ấy là người tốt, lương thiện và chân thật, nên anh muốn làm mọi cách để giúp cô sống sót rời khỏi đây.
Họ ra ngoài, Billy tự hỏi không biết bản tính tàn nhẫn của mình đã đi đâu mất, và nhanh chóng quyết định rằng mình không cần nó nữa. Lần đầu tiên sau biến cố kinh khủng ở ngôi làng trong rừng rậm, anh lại thấy mình là chính mình.
oOo
Hắn chứng kiến cả hai thu nhặt đạn, vừa ấn tượng vừa thất vọng bởi sự kiên cường của chúng. Sau khi xem lại bản đồ, chúng lên cầu thang, hẳn là tới đài quan sát; mặc dù lũ con nghe được giọng bọn chúng, nhưng lại không thể lên tiếng.
Hắn đã cho đám con lùng kiếm những phiến đá cần thiết, đặt cạnh cánh cửa dẫn tới đài quan sát. Trừ khi Billy và Rebecca quá đỗi ngu ngốc – mà với những gì đã làm thì chúng không ngu chút nào – còn thì chúng nhất định sẽ tìm được cách khởi động trụ xoay của khối kiến trúc, đến gần lối ra. Từ đó sẽ dẫn tới phòng thí nghiệm, nằm ẩn sau một nhà nguyện…
Hắn tự hỏi liệu bọn chúng sẽ tìm thấy cái gì trong đó, trong phòng thí nghiệm của Marcus, hay lại cuỗm thêm những đồ nào khác. Hắn muốn họ khám phá mọi thứ về bản chất thật sự của Umbrella, nhưng lại không muốn thấy bọn họ thu thập những tàn dư đáng buồn về công việc vĩ đại của Marcus.
Hắn nghĩ ngợi về phòng thí nghiệm, về Marcus, mặc dù Marcus đã qua đời một thập niên. Toàn khu vực đã bị đóng cửa sau “sự mất tích” của giám đốc, nhưng gần đây, Umbrella đã tái khởi động mọi thứ - phòng thí nghiệm, nhà máy xử lý, trung tâm huấn luyện. Chưa có nơi nào hoàn tất lúc virus phát tán; toàn bộ được vận hành bởi đội ngũ các nhân viên bảo trì, được giám sát bởi một ban quản lý đầy triển vọng; thế nhưng, Umbrella đã mất mát không ít những nhân viên trung thành.
Billy và Rebecca đã soát qua những căn phòng phía đông tầng một và quay ra tiền sảnh, tiếp tục tiến lên tầng hai. Chúng tìm thấy cánh cửa dẫn đến tầng ba, rồi tiến đến chỗ cầu thang với súng trong tay, những khuôn mặt trẻ trung lộ vẻ kiên quyết không chút sợ hãi. Hắn quan sát cả hai leo lên, những cảm xúc trái ngược trào dâng trong đầu. Hắn muốn thấy chúng thành công, và muốn thấy chúng chết. Có cách nào thấy được cả hai không nhỉ? Chúng đã dễ dàng xử lý bọn Eliminator, mặc dù bọn này đã yếu đi bởi đói khát và bị bỏ bê. Nếu gặp lũ Hunter thì sao? Hoặc với nguyên mẫu Tyrant?
Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu chúng đến được nơi hắn và lũ con đang chờ và quan sát? Chúng sẽ làm gì?
Hắn cau mày, thấy khó chịu với suy nghĩ đó. Bầy đàn, vốn nhạy cảm với tính khí của hắn, bắt đầu trườn lên chân hắn, lên ngực, ra dáng ôm ấp hắn. Hắn nựng chúng, bàn tay rờ rẫm vỗ về chúng. Nếu hai kẻ mạo hiểm đó thật sự đến được tổ - một giả thiết khó tin – hắn sẽ để chúng đi, dĩ nhiên rồi, để chúng có thể công bố những tội ác của Umbrella.
”Hoặc có thể ta sẽ giết chúng,” hắn nhún vai. Hắn sẽ quyết định sau, nếu chuyện đó xảy ra. Hoàn toàn sai nếu nói hắn thờ ơ với số phận của bọn chúng; trong lúc chờ đợi cái chết đến gần của Umbrella, thì quan sát Billy và Rebecca là một niềm khoái lạc của hắn, hắn thật sự hứng thú chờ xem bọn chúng gặp chuyện gì tiếp theo. Nhưng hắn sẽ giết chúng, trước khi chúng có cơ hội làm tổn thương bầy con lần nữa.
Cả hai đã lên đến đỉnh cầu thang, cảnh giác nhìn quanh tay vịn xem có bất cứ động tĩnh nào. Hắn chợt nhớ đến bọn Centurion, đang ẩn trong những bức vách chỗ hồ nuôi, tự hỏi liệu chúng có ra mặt để xem kẻ nào đã dám cả gan xâm phạm lãnh thổ. Billy và Rebecca khó có hy vọng với bọn này. Nếu lũ Eliminator là quân tốt trên bàn cờ, thì lũ Centurion chính là quân mã. Hắn hăm hở chồm tới để quan sát.
oOo
Quãng đường lên tầng ba hoàn toàn yên ổn, ngoại trừ việc họ phải chạy nhanh qua phòng ăn; mặc dù hai con zombie quanh bàn đủ chậm để ăn đạn, nhưng cô vẫn không sao cảm thấy thoải mái khi phải lướt qua những sinh vật đã chết. Billy đang chạy trước ba bước chắc cũng suy nghĩ giống như cô.
Lúc này, trên đỉnh cầu thang, Rebecca thở phào nhẹ nhõm. Tầng ba – chính xác là một phần tầng ba – là một gian phòng rộng rãi độc nhất, không có góc khuất nào nên đỡ phài lo lắng. Cửa lên đài quan sát nằm bên phải họ. Thẳng phía trước là hồ nuôi, một cái hố rỗng không lõm xuống, trải rộng suốt chiều dài phòng. Bên trái là một cánh cửa, mà theo bản đồ, nó dẫn ra mái hiên ngoài trời.
”Cô nghĩ cái này để nuôi thứ gì?” Billy hỏi, hạ giọng xuống. Nhưng âm thanh vẫn lan đi khắp căn phòng mênh mông.
”Chẳng biết nữa. Đỉa chắc?” Rebecca đáp. Cô đang nghĩ tới cái bóng lẻ loi họ thấy lúc còn trên tàu, hát gọi lũ đỉa, và bất giác rùng mình. ”Vậy đài quan sát hay mái hiên đây?”
Billy nhìn trước ngó sau, rồi nhún vai. ”Có vẻ an toàn. Chúng ta có thể chia ra đi từng cửa – chỉ mở và ngó qua thôi, không được đi lẻ đâu nhé?”
Rebecca gật đầu. Cô đã cảm thấy an toàn hơn nhờ số đạn dồi dào mới kiếm được, nhưng đề nghị này khiến cô phải cẩn trọng lại một chút. Phải nói là cô không mấy sốt sắng khi xé lẻ ra. ”Tôi sẽ xem mái hiên.”
Hai người cất bước, tiếng chân dội lại quanh căn phòng rộng lớn. Cửa lên đài quan sát ở gần hơn; nên chỉ còn tiếng chân Rebecca vang lên khi cô đi tiếp đến vách tường phía nam.
”Nhìn này,” Billy gọi to khi cô đến bên cửa. Anh đang cầm lên một thứ giống như quyển sách, tay kia còn hai cuốn nữa. Rebecca nheo mắt nhìn ngang qua gian phòng rộng, thấy chúng được làm bằng đá, cái nào cũng có một cạnh bo tròn. ”Nó ở ngay trước cửa.”
”Cái gì thế?” cô hỏi. Mặc dù cô đã thấp giọng, nhưng tiếng nói vẫn dễ dàng truyền qua khoảng không vắng lặng.
”Vật trang trí, có lẽ thế,” anh đáp. ”Mỗi cái có khắc chữ ngoài bìa.” Anh nhìn xuống mấy tấm biển, đọc lướt qua. ”À… chúng ta có đoàn kết, kỷ luật, vâng lời.”
Giống đoạn ghi âm mà họ đã nghe, lời kể lể của Tiến sĩ Marcus về quy tắc ứng xử của công ty – chính là ba từ này. ”Nên giữ lấy chúng,” Rebecca nói. ”Chắc là một phần của câu đố, giống như mấy con vật.”
”Tôi cũng nghĩ vậy,” Billy nói, và hạ giọng. ”căn nhà điên rồ.”
Cô quay lại cánh cửa, giương súng lên trong lúc đẩy chốt – và thấy nó bị khóa. Cô thở phào, buông lỏng hai vai, nhận ra mình đã quá tập trung để đón đợi một cuộc tập kích.
”Bị khóa,” cô lên tiếng.
Billy đã mở cánh cửa vào đài quan sát và đang nhìn dáo dác bên trong. Anh thò đầu trở ra, tay giữ cửa mở. ”Chỗ này hay đây. Không biết để làm gì, nhưng có cả đống thiết bị trong này; không chừng là radio.”
Radio. Cô cảm thấy hy vọng bùng lên. ”Tôi đến –“
Chữ đây bị bị cắt ngang bởi một âm thanh giống như tiếng va đập mạnh vào đá, như thể có con gì đang gõ móng thép xuống mặt bàn, tiếng động phát ra rất to. Dù là giống gì đi nữa, nó cũng có kích thước khá lớn – và càng lúc càng đến gần với tiếng động to dần. Thật khó phán đoán nó đến từ hướng nào; bởi tiếng dội vang khắp mọi hướng.
”Hồ nuôi,” Billy hét lớn, vẫy tay gọi cô. ”Qua đây mau!”
Rebecca đâm đầu chạy tới, tim đập thình thịch, thấy sợ khi nhìn vào cái hồ, không biết có qua kịp không. Cô cảm thấy có sự chuyển động của một thứ gì đó long lỏng và tối thui, và chạy vắt giò lên cổ, cuối cùng đánh liều liếc nhìn khi chạy ngang nó.
Hình dáng của nó đủ sức dập tắt bất cứ một ý nghĩ tỉnh táo nào. Là một con rết, hoặc một loại động vật nhiều chân nào đó, lớn đến nỗi mấy con nhện to lúc trước mà thấy chắc cũng phải khép nép. Những con mắt vàng ệch trồi ra từ hai bên cái đầu đen thui bóng loáng, mấy cọng râu đo đỏ dài ngoằng đang co duỗi và rung động trên đầu. Cái thân uốn khúc dài lê thê nằm gần sát sàn, chia làm nhiều đốt và óng ánh sắc kim loại, được chống chỏi bởi mười hai cặp chân đỏ ối nhọn hoắc. Chiều dài của nó dễ phải đến bốn mét hoặc hơn, to cỡ cái thùng rượu – và đang rượt theo cô, mấy cái cẳng vung vẩy hết tốc lực giúp nó băng ngang cái hồ trống không.
”Chạy đi!” Billy thét, và Rebecca chạy bán sống bán chết, ngửi thấy mùi hôi thối của con vật ngập trong không khí, một thứ mùi ôi kinh khủng đủ sức làm cô nôn mửa, ấy là nếu có thời gian. Billy đang dùng chân để chặn cửa vào đài quan sát, khẩu súng săn nhắm thẳng vào phía sau cô, và Rebecca cảm thấy nó đang rất gần mình, như thể bóng tối đang sắp sửa chụp xuống.
Ngay khi cô vừa đến chỗ Billy, anh nổ súng, giật nòng rồi bắn tiếp phát nữa khi cô lướt qua bên cạnh, đâm bổ qua cánh cửa. Trong khoảnh khắc cô vừa vào trong, anh cũng nhảy qua, đóng sầm cánh cửa sau lưng – và không đầy nửa giây sau, có tiếng con vật dộng mình vào cửa, tiếng va chạm của phần cơ thể bọc thép với gỗ dày. Cả hai chờ đợi thấp thỏm, mắt nhìn đăm đăm ra cửa – nhưng rồi âm thanh đó ngưng bặt sau vài giây, rồi có tiếng chân lóc cóc biến đi xa dần.
”Ơn Chúa,” Billy nói. Rebecca gật đầu. Anh đưa tay ra kéo cô đứng dậy, cả hai thở hổn hển.
”Tốt nhất là không đi ngả này nữa,” Rebecca nói, cầu mong họ sẽ không phải quay lại đó.
”Có lý lắm,” Billy đồng ý.
Họ im lặng một lát, đưa mắt nhìn quanh chỗ ẩn náu. Đây là một căn phòng tròn khá lớn, có hai tầng. Họ đang đứng trên một lối đi hẹp tạo thành hình bán nguyệt ôm lấy căn phòng; góc phía bắc có vài cánh cửa khác. Gần đó là một cầu thang ngắn tách khỏi lối đi, dẫn xuống một cái sàn bằng lưới kim loại, xếp đầy trang thiết bị. Dưới cái sàn toàn là bóng tối.
Hai người cùng rảo quanh lối đi, dừng lại trước mấy cánh cửa một chút. Tất cả đã khóa. Họ trao đổi ánh mắt với nhau nhưng không nói gì, và tiếp tục đi đến cái thang. Rebecca xuống trước, dừng lại bên một cỗ máy khá lớn nằm chình ình chính giữa sàn, có lẽ là kính thiên văn. Có một cánh tay đòn, nhưng nó cao ngoài tầm với. Billy đứng đằng sau cô, đang quan sát những thiết bị còn lại, gồm một dàn máy tính và những máy móc mà cô không biết chúng là gì. Cô quay lại kính thiên văn, nhìn xuống bảng điều khiển – và nín thở. Có ba khối lõm xuống trên đó, khuôn dạng giống như tấm bia mộ, một cạnh dẹt, cạnh kia tròn.
”Tôi không thấy có radio, nhưng –“ Billy cất tiếng, nhưng cô đã ngắt lời.
”Anh vẫn giữ mấy phiến đá chứ?” cô nói.
Billy quay lại nhìn bảng điều khiển trong lúc mở túi. Anh lấy mấy phiến đá ra, cả ba có kích thước cỡ một cuốn sách bìa mềm nhưng mỏng hơn. Rebecca cầm lấy, nhớ lại cái phương châm rối rắm của Umbrella trong lúc đặt chúng vào vị trí. ”Vâng lời tạo thành kỷ luật. Kỷ luật tạo thành đoàn kết. Đoàn kết làm nên sức mạnh…”
”Và sức mạnh là sự sống,” Billy kết câu.
Ngay khi phiến thứ ba vào chỗ, một âm thanh cực lớn vang khắp căn phòng hai tầng, tiếng máy móc hoạt động – và họ nhận ra cả phòng bắt đầu đi xuống như một cái thang máy. Không phải cái sàn, mà là cả phòng, cả tường, tất cả. Dưới chân họ, bóng tối đang trôi dần lên, lộ rõ là một hồ nước, bọt khí bị khuấy động lên theo đà đi xuống của căn phòng. Trong một thoáng, Rebecca tự hỏi liệu nó có dừng lại chăng, thật hãi hùng nếu bị dìm chết ngộp – và rồi tiếng máy móc nhỏ dần, căn phòng đứng yên trở lại. Giữa âm thanh nhỏ dần của cỗ máy, họ nghe một tiếng click phát ra từ mấy cánh cửa ở góc phía bắc trên đầu.
Cả hai nhìn nhau, Rebecca thấy anh cũng lộ vẻ kinh ngạc chẳng khác gì mình.
”Xem ra chúng ta đã biết phải đi đâu tiếp rồi,” Billy nói, cố gắng nở nụ cười không chút thuyết phục. Rebecca thậm chí còn không định cười. Họ đang bị dẫn dắt – nhưng không biết để được tự do, hay để làm những con cừu giết thịt?
Phải thử thôi. Cả hai không nói gì nữa, mà cùng quay lại và leo lên thang.
Dịch giả: Lioncoeur
Con khỉ đầu chó lao tới ngay khi họ trở ra hành lang – và ra đi một cách hoành tráng, khẩu súng săn hai nòng bắn nó vỡ sọ với một tiếng nổ đinh tai. Billy nạp lại đạn mới với viên còn lại duy nhất. Anh nhớ là mình còn nhiều, nhưng có lẽ đã bị rớt mất đâu đó dọc đường. Dù sao cũng chẳng có gì khác chặn đường họ nữa, và cả hai quay lại căn phòng lớn. Billy có một cảm giác nhẹ nhõm mà đã lâu anh không có. Bên cạnh trận cười hết mức, như để thư giãn giữa những sự kiện hỗn độn mà họ dính vào, đây còn là lần đầu anh thổ lộ tâm sự với một người thật lòng muốn nghe, một người tin rằng anh nói sự thật. Họ dừng chân chỗ cái tượng đài lớn bằng đá giữa căn phòng thênh thang, nhìn quanh quất. Quanh bệ là sáu con vật tạc tượng, mặt hướng ra ngoài, mỗi con có một tấm thẻ bài gắn phía trước, bên cạnh mỗi tấm là một ngọn đèn dầu nhỏ. Những con vật được chạm khắc cực kỳ điêu luyện, nhưng chỉ càng làm nổi bật thêm tính chất kỳ quái, nếu không muốn nói là thật sự chướng mắt.
Sinh vật trước mặt anh là một con đại bàng đang bay, dưới móng vuốt quắp chặt một con rắn. Anh đọc lớn tấm thẻ. ”TA TỰ DO BAY LƯỢN GIỮA KHÔNG TRUNG, SĂN BẮT CON MỒI KHÔNG CHÂN.” Anh cau mày, chuyển sang đọc tấm thẻ kế bên, của một con hươu. “TA ĐỨNG CHỄM CHỆ TRÊN MẶT ĐẤT VỚI CẶP SỪNG NGẠO NGHỄ PHÔ BÀY.”
Rebecca rảo bước quanh những mẫu vật nghệ thuật không đúng chỗ, chợt thấy một cánh cổng thép bắt chặt vào vách tường phía sau. Cánh cổng chắn lối vào một hành lang ngắn, có hai ô cửa nằm dọc theo vách. ”Ở đây có ký hiệu, nó nói” cô quay lại nhìn chăm chú những con vật. ”đại để là dùng mấy ngọn đèn để đánh dấu từ con yếu nhất đến con mạnh nhất. Một bài toán đố.” Cô nắm lấy một thanh thép của cánh cổng, lắc mạnh. ”Chắc để mở cái cửa này.”
”Tức là phải thắp sáng mấy ngọn đèn theo thứ tự, bắt đầu từ con yếu nhất,”Billy nói. Thật ngu ngốc. Sao lại phải đâm đầu vào mấy cái rắc rối này cơ chứ… Anh lôi bàn đồ ra khỏi túi, nghiên cứu nó. ”Dường như có vài căn phòng chỗ đó. Tôi không thấy lối ra.”
Rebecca nhún vai. ”Ừ, nhưng có thể chúng ta tìm được gì đó. Liệu nó có gây tổn hại gì không nhỉ?”
”Tôi không biết,” anh thật thà trả lời. ”Biết đâu đấy.”
Cô cười cười rồi quay sang bức tượng gần nhất, một con cọp, đọc tấm thẻ bên cạnh. “TA LÀ VUA CỦA VẠN VẬT: KHÔNG AI THOÁT ĐƯỢC KHI TA MUỐN BẮT.”
Billy đi sang trái, tới một con rắn đang cuộn quanh nhánh cây. ”Cái này nói, TA LẶNG LẼ TRƯỜN QUA NẠN NHÂN BẰNG CƠ THỂ KHÔNG CHÂN, KHUẤT PHỤC NHỮNG VỊ VUA MẠNH MẼ NHẤT BẰNG CHẤT ĐỘC.”
Rebecca đọc to lên hai cái cuối – bên dưới một con sói có dòng chữ, TRÍ TUỆ SẮC SẢO CỦA TA CÓ THỂ HẠ GỤC NGAY CẢ NHỮNG SÚC VẬT CÓ SỪNG VĨ ĐẠI NHẤT.
Tượng cuối cùng là một con ngựa, đang trong tư thế chồm lên. Chữ khắc bên dưới nó ghi là, BAO NHIÊU TRÒ GIAN TRÁ CŨNG KHÔNG NHANH BẰNG VÓ NGỰA THẦN TỐC CỦA TA.
Súc vật có sừng. Billy quay lại con hươu, đọc lại phần “cặp sừng ngạo nghễ phô bày.”
”Nghĩa là sói mạnh hơn hươu,” anh nói.
”Và nếu gian lận cũng không đuổi kịp ngựa, thì ngựa tất phải mạnh hơn sói,” cô nói. ”Thứ gì mạnh hơn rắn nhỉ?”
”Hẳn là đại bàng, nó quắp được rắn.”
Họ rảo bước quanh tượng đài, đọc lên những gì ghi trên đó, cân nhắc bài toán. Sau khi đã đồng ý về thứ tự, Billy bước đến từng con vật, lần lượt thắp sáng những ngọn đèn dầu – từ yếu nhất đến mạnh nhất, dĩ nhiên chỉ là với những bức tượng này thôi, con kém nhất là hươu, rồi sói, ngựa, hổ, rắn, và đại bàng.
Ngay lúc anh thắp xong ngọn đèn của đại bàng, một âm thanh nặng nề của máy móc phát ra đâu đó bên trong những bức tượng – và cánh cổng thép phía sau nhẹ nhàng kéo lên, trượt vào trong cái rãnh phía trên mái vòm.
Hai người dấn bước vào hành lang. Căn phòng đầu tiên bên tay phải, khi nhìn sơ qua thì thấy nó chẳng có gì đáng giá. Chỉ có một chồng thùng gói hàng trống không, vài cái kệ xếp lộn xộn. Billy chuẩn bị bỏ qua thì Rebecca bước về phía đống thùng. Có một cái quay lại phía cửa nên họ không thể thấy được có gì trong đó – và khi bước vòng qua, cô bật cười hào hứng, đồng thời cúi xuống bên cạnh cái thùng, xoay nó lại cho Billy thấy. Anh bước nhanh tới cạnh cô, cảm giác giống như một đứa trẻ được nhận quà Giáng sinh. Câu đố chết tiệt ấy cũng đáng giá quá chứ.
Có hai hộp rưỡi loại đạn cỡ chín ly. Còn lại nửa hộp, loại hộp hai mươi hai viên, cỡ.50, thì không mấy hữu ích với loại súng nạp băng đạn – nó được thiết kế cho súng lục ổ quay. Nhưng một hộp mười bốn viên đạn súng săn thì quá tuyệt. Billy không thể không nghĩ tới một khẩu bazooka, nhưng với những gì thu thập được thì họ không thể mong chờ gì hơn.
Cả hai mất vài phút để nạp lại đạn. Rebecca tìm được trên kệ một cái ba lô đã hỏng khóa kéo, rồi tống hết mọi thứ vào đó và vào đai lưng của cô; họ đồng ý là nên mang nó theo, để có đủ chỗ chứa trong trường hợp tìm được thêm vũ khí. Billy nhặt một cái ghim băng dưới sàn để thay thế dây kéo cho ba lô, cảm thấy an tâm với sức nặng của mớ đạn.
”Tôi đến phải hôn cô mất,” anh vừa nói vừa bồng khẩu súng săn lên – và khi thấy im lặng, anh quay lại nhìn, thấy cô hơi đỏ mặt. Cô quay đi chỗ khác, xốc lại đai lưng.
”Tôi không định nói theo nghĩa đen,” anh chữa lại. ”Ý tôi là, không phải cô không hấp dẫn, nhưng cô – Tôi – Ý tôi là – “
”Thôi đừng ấp úng nữa,” cô nói mát mẻ. ”Tôi biết anh định nói gì mà.”
Billy gật đầu nhẹ nhõm. Họ đã kết hợp với nhau đủ nhiều để không nghĩ tới cái chuyện nam nữ. Mặc dù cô ta cũng khá xinh.
Anh dẹp ý nghĩ đó đi, tự nhắc nhở là mình chỉ mới đoạn tuyệt với đàn bà có một năm – lúc này chưa tới mức phải nghĩ tới chuyện đó.
Hai người chuyển sang ô cửa thứ hai, thấy nó không khóa. Đây là một phòng ngủ tồi tàn và bẩn thỉu, mấy cái giường làm bằng gỗ dán nằm xếp lớp, vài cái mền rải rác xung quanh trông xơ xác và cáu bẩn. Với những tiện nghi tồi tàn thế này, cùng với cánh cổng thép khóa kín ngoài hành lang, Billy có thể đoan chắc rằng những người ở đây không hề tình nguyện. Rebecca có nói với anh về quyển nhật ký, về những đối tượng thử nghiệm vốn là người…
Cả căn cứ này làm anh thấy sởn gai ốc. Họ phải thoát ra ngoài càng nhanh càng tốt.
”Chúng ta đi lên hay xuống bây giờ?” Rebecca hỏi khi họ quay trở ra hành lang.
”Có một đài quan sát trên lầu à?” Billy hỏi. Rebecca gật đầu. ”Vậy đi quan sát thử xem. Biết đâu có thể phát tín hiệu cầu cứu không chừng.”
Billy chợt nhận ra mình vừa gợi ý gọi hỗ trợ, nhưng anh không hề đổi ý, cho dù biết cái gì đang chờ mình nếu điều đó xảy ra. Anh thà chết trong cuộc chiến sống còn chứ không muốn bị hành quyết… Nhưng Rebecca thì khác. Cô ấy là người tốt, lương thiện và chân thật, nên anh muốn làm mọi cách để giúp cô sống sót rời khỏi đây.
Họ ra ngoài, Billy tự hỏi không biết bản tính tàn nhẫn của mình đã đi đâu mất, và nhanh chóng quyết định rằng mình không cần nó nữa. Lần đầu tiên sau biến cố kinh khủng ở ngôi làng trong rừng rậm, anh lại thấy mình là chính mình.
oOo
Hắn chứng kiến cả hai thu nhặt đạn, vừa ấn tượng vừa thất vọng bởi sự kiên cường của chúng. Sau khi xem lại bản đồ, chúng lên cầu thang, hẳn là tới đài quan sát; mặc dù lũ con nghe được giọng bọn chúng, nhưng lại không thể lên tiếng.
Hắn đã cho đám con lùng kiếm những phiến đá cần thiết, đặt cạnh cánh cửa dẫn tới đài quan sát. Trừ khi Billy và Rebecca quá đỗi ngu ngốc – mà với những gì đã làm thì chúng không ngu chút nào – còn thì chúng nhất định sẽ tìm được cách khởi động trụ xoay của khối kiến trúc, đến gần lối ra. Từ đó sẽ dẫn tới phòng thí nghiệm, nằm ẩn sau một nhà nguyện…
Hắn tự hỏi liệu bọn chúng sẽ tìm thấy cái gì trong đó, trong phòng thí nghiệm của Marcus, hay lại cuỗm thêm những đồ nào khác. Hắn muốn họ khám phá mọi thứ về bản chất thật sự của Umbrella, nhưng lại không muốn thấy bọn họ thu thập những tàn dư đáng buồn về công việc vĩ đại của Marcus.
Hắn nghĩ ngợi về phòng thí nghiệm, về Marcus, mặc dù Marcus đã qua đời một thập niên. Toàn khu vực đã bị đóng cửa sau “sự mất tích” của giám đốc, nhưng gần đây, Umbrella đã tái khởi động mọi thứ - phòng thí nghiệm, nhà máy xử lý, trung tâm huấn luyện. Chưa có nơi nào hoàn tất lúc virus phát tán; toàn bộ được vận hành bởi đội ngũ các nhân viên bảo trì, được giám sát bởi một ban quản lý đầy triển vọng; thế nhưng, Umbrella đã mất mát không ít những nhân viên trung thành.
Billy và Rebecca đã soát qua những căn phòng phía đông tầng một và quay ra tiền sảnh, tiếp tục tiến lên tầng hai. Chúng tìm thấy cánh cửa dẫn đến tầng ba, rồi tiến đến chỗ cầu thang với súng trong tay, những khuôn mặt trẻ trung lộ vẻ kiên quyết không chút sợ hãi. Hắn quan sát cả hai leo lên, những cảm xúc trái ngược trào dâng trong đầu. Hắn muốn thấy chúng thành công, và muốn thấy chúng chết. Có cách nào thấy được cả hai không nhỉ? Chúng đã dễ dàng xử lý bọn Eliminator, mặc dù bọn này đã yếu đi bởi đói khát và bị bỏ bê. Nếu gặp lũ Hunter thì sao? Hoặc với nguyên mẫu Tyrant?
Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu chúng đến được nơi hắn và lũ con đang chờ và quan sát? Chúng sẽ làm gì?
Hắn cau mày, thấy khó chịu với suy nghĩ đó. Bầy đàn, vốn nhạy cảm với tính khí của hắn, bắt đầu trườn lên chân hắn, lên ngực, ra dáng ôm ấp hắn. Hắn nựng chúng, bàn tay rờ rẫm vỗ về chúng. Nếu hai kẻ mạo hiểm đó thật sự đến được tổ - một giả thiết khó tin – hắn sẽ để chúng đi, dĩ nhiên rồi, để chúng có thể công bố những tội ác của Umbrella.
”Hoặc có thể ta sẽ giết chúng,” hắn nhún vai. Hắn sẽ quyết định sau, nếu chuyện đó xảy ra. Hoàn toàn sai nếu nói hắn thờ ơ với số phận của bọn chúng; trong lúc chờ đợi cái chết đến gần của Umbrella, thì quan sát Billy và Rebecca là một niềm khoái lạc của hắn, hắn thật sự hứng thú chờ xem bọn chúng gặp chuyện gì tiếp theo. Nhưng hắn sẽ giết chúng, trước khi chúng có cơ hội làm tổn thương bầy con lần nữa.
Cả hai đã lên đến đỉnh cầu thang, cảnh giác nhìn quanh tay vịn xem có bất cứ động tĩnh nào. Hắn chợt nhớ đến bọn Centurion, đang ẩn trong những bức vách chỗ hồ nuôi, tự hỏi liệu chúng có ra mặt để xem kẻ nào đã dám cả gan xâm phạm lãnh thổ. Billy và Rebecca khó có hy vọng với bọn này. Nếu lũ Eliminator là quân tốt trên bàn cờ, thì lũ Centurion chính là quân mã. Hắn hăm hở chồm tới để quan sát.
oOo
Quãng đường lên tầng ba hoàn toàn yên ổn, ngoại trừ việc họ phải chạy nhanh qua phòng ăn; mặc dù hai con zombie quanh bàn đủ chậm để ăn đạn, nhưng cô vẫn không sao cảm thấy thoải mái khi phải lướt qua những sinh vật đã chết. Billy đang chạy trước ba bước chắc cũng suy nghĩ giống như cô.
Lúc này, trên đỉnh cầu thang, Rebecca thở phào nhẹ nhõm. Tầng ba – chính xác là một phần tầng ba – là một gian phòng rộng rãi độc nhất, không có góc khuất nào nên đỡ phài lo lắng. Cửa lên đài quan sát nằm bên phải họ. Thẳng phía trước là hồ nuôi, một cái hố rỗng không lõm xuống, trải rộng suốt chiều dài phòng. Bên trái là một cánh cửa, mà theo bản đồ, nó dẫn ra mái hiên ngoài trời.
”Cô nghĩ cái này để nuôi thứ gì?” Billy hỏi, hạ giọng xuống. Nhưng âm thanh vẫn lan đi khắp căn phòng mênh mông.
”Chẳng biết nữa. Đỉa chắc?” Rebecca đáp. Cô đang nghĩ tới cái bóng lẻ loi họ thấy lúc còn trên tàu, hát gọi lũ đỉa, và bất giác rùng mình. ”Vậy đài quan sát hay mái hiên đây?”
Billy nhìn trước ngó sau, rồi nhún vai. ”Có vẻ an toàn. Chúng ta có thể chia ra đi từng cửa – chỉ mở và ngó qua thôi, không được đi lẻ đâu nhé?”
Rebecca gật đầu. Cô đã cảm thấy an toàn hơn nhờ số đạn dồi dào mới kiếm được, nhưng đề nghị này khiến cô phải cẩn trọng lại một chút. Phải nói là cô không mấy sốt sắng khi xé lẻ ra. ”Tôi sẽ xem mái hiên.”
Hai người cất bước, tiếng chân dội lại quanh căn phòng rộng lớn. Cửa lên đài quan sát ở gần hơn; nên chỉ còn tiếng chân Rebecca vang lên khi cô đi tiếp đến vách tường phía nam.
”Nhìn này,” Billy gọi to khi cô đến bên cửa. Anh đang cầm lên một thứ giống như quyển sách, tay kia còn hai cuốn nữa. Rebecca nheo mắt nhìn ngang qua gian phòng rộng, thấy chúng được làm bằng đá, cái nào cũng có một cạnh bo tròn. ”Nó ở ngay trước cửa.”
”Cái gì thế?” cô hỏi. Mặc dù cô đã thấp giọng, nhưng tiếng nói vẫn dễ dàng truyền qua khoảng không vắng lặng.
”Vật trang trí, có lẽ thế,” anh đáp. ”Mỗi cái có khắc chữ ngoài bìa.” Anh nhìn xuống mấy tấm biển, đọc lướt qua. ”À… chúng ta có đoàn kết, kỷ luật, vâng lời.”
Giống đoạn ghi âm mà họ đã nghe, lời kể lể của Tiến sĩ Marcus về quy tắc ứng xử của công ty – chính là ba từ này. ”Nên giữ lấy chúng,” Rebecca nói. ”Chắc là một phần của câu đố, giống như mấy con vật.”
”Tôi cũng nghĩ vậy,” Billy nói, và hạ giọng. ”căn nhà điên rồ.”
Cô quay lại cánh cửa, giương súng lên trong lúc đẩy chốt – và thấy nó bị khóa. Cô thở phào, buông lỏng hai vai, nhận ra mình đã quá tập trung để đón đợi một cuộc tập kích.
”Bị khóa,” cô lên tiếng.
Billy đã mở cánh cửa vào đài quan sát và đang nhìn dáo dác bên trong. Anh thò đầu trở ra, tay giữ cửa mở. ”Chỗ này hay đây. Không biết để làm gì, nhưng có cả đống thiết bị trong này; không chừng là radio.”
Radio. Cô cảm thấy hy vọng bùng lên. ”Tôi đến –“
Chữ đây bị bị cắt ngang bởi một âm thanh giống như tiếng va đập mạnh vào đá, như thể có con gì đang gõ móng thép xuống mặt bàn, tiếng động phát ra rất to. Dù là giống gì đi nữa, nó cũng có kích thước khá lớn – và càng lúc càng đến gần với tiếng động to dần. Thật khó phán đoán nó đến từ hướng nào; bởi tiếng dội vang khắp mọi hướng.
”Hồ nuôi,” Billy hét lớn, vẫy tay gọi cô. ”Qua đây mau!”
Rebecca đâm đầu chạy tới, tim đập thình thịch, thấy sợ khi nhìn vào cái hồ, không biết có qua kịp không. Cô cảm thấy có sự chuyển động của một thứ gì đó long lỏng và tối thui, và chạy vắt giò lên cổ, cuối cùng đánh liều liếc nhìn khi chạy ngang nó.
Hình dáng của nó đủ sức dập tắt bất cứ một ý nghĩ tỉnh táo nào. Là một con rết, hoặc một loại động vật nhiều chân nào đó, lớn đến nỗi mấy con nhện to lúc trước mà thấy chắc cũng phải khép nép. Những con mắt vàng ệch trồi ra từ hai bên cái đầu đen thui bóng loáng, mấy cọng râu đo đỏ dài ngoằng đang co duỗi và rung động trên đầu. Cái thân uốn khúc dài lê thê nằm gần sát sàn, chia làm nhiều đốt và óng ánh sắc kim loại, được chống chỏi bởi mười hai cặp chân đỏ ối nhọn hoắc. Chiều dài của nó dễ phải đến bốn mét hoặc hơn, to cỡ cái thùng rượu – và đang rượt theo cô, mấy cái cẳng vung vẩy hết tốc lực giúp nó băng ngang cái hồ trống không.
”Chạy đi!” Billy thét, và Rebecca chạy bán sống bán chết, ngửi thấy mùi hôi thối của con vật ngập trong không khí, một thứ mùi ôi kinh khủng đủ sức làm cô nôn mửa, ấy là nếu có thời gian. Billy đang dùng chân để chặn cửa vào đài quan sát, khẩu súng săn nhắm thẳng vào phía sau cô, và Rebecca cảm thấy nó đang rất gần mình, như thể bóng tối đang sắp sửa chụp xuống.
Ngay khi cô vừa đến chỗ Billy, anh nổ súng, giật nòng rồi bắn tiếp phát nữa khi cô lướt qua bên cạnh, đâm bổ qua cánh cửa. Trong khoảnh khắc cô vừa vào trong, anh cũng nhảy qua, đóng sầm cánh cửa sau lưng – và không đầy nửa giây sau, có tiếng con vật dộng mình vào cửa, tiếng va chạm của phần cơ thể bọc thép với gỗ dày. Cả hai chờ đợi thấp thỏm, mắt nhìn đăm đăm ra cửa – nhưng rồi âm thanh đó ngưng bặt sau vài giây, rồi có tiếng chân lóc cóc biến đi xa dần.
”Ơn Chúa,” Billy nói. Rebecca gật đầu. Anh đưa tay ra kéo cô đứng dậy, cả hai thở hổn hển.
”Tốt nhất là không đi ngả này nữa,” Rebecca nói, cầu mong họ sẽ không phải quay lại đó.
”Có lý lắm,” Billy đồng ý.
Họ im lặng một lát, đưa mắt nhìn quanh chỗ ẩn náu. Đây là một căn phòng tròn khá lớn, có hai tầng. Họ đang đứng trên một lối đi hẹp tạo thành hình bán nguyệt ôm lấy căn phòng; góc phía bắc có vài cánh cửa khác. Gần đó là một cầu thang ngắn tách khỏi lối đi, dẫn xuống một cái sàn bằng lưới kim loại, xếp đầy trang thiết bị. Dưới cái sàn toàn là bóng tối.
Hai người cùng rảo quanh lối đi, dừng lại trước mấy cánh cửa một chút. Tất cả đã khóa. Họ trao đổi ánh mắt với nhau nhưng không nói gì, và tiếp tục đi đến cái thang. Rebecca xuống trước, dừng lại bên một cỗ máy khá lớn nằm chình ình chính giữa sàn, có lẽ là kính thiên văn. Có một cánh tay đòn, nhưng nó cao ngoài tầm với. Billy đứng đằng sau cô, đang quan sát những thiết bị còn lại, gồm một dàn máy tính và những máy móc mà cô không biết chúng là gì. Cô quay lại kính thiên văn, nhìn xuống bảng điều khiển – và nín thở. Có ba khối lõm xuống trên đó, khuôn dạng giống như tấm bia mộ, một cạnh dẹt, cạnh kia tròn.
”Tôi không thấy có radio, nhưng –“ Billy cất tiếng, nhưng cô đã ngắt lời.
”Anh vẫn giữ mấy phiến đá chứ?” cô nói.
Billy quay lại nhìn bảng điều khiển trong lúc mở túi. Anh lấy mấy phiến đá ra, cả ba có kích thước cỡ một cuốn sách bìa mềm nhưng mỏng hơn. Rebecca cầm lấy, nhớ lại cái phương châm rối rắm của Umbrella trong lúc đặt chúng vào vị trí. ”Vâng lời tạo thành kỷ luật. Kỷ luật tạo thành đoàn kết. Đoàn kết làm nên sức mạnh…”
”Và sức mạnh là sự sống,” Billy kết câu.
Ngay khi phiến thứ ba vào chỗ, một âm thanh cực lớn vang khắp căn phòng hai tầng, tiếng máy móc hoạt động – và họ nhận ra cả phòng bắt đầu đi xuống như một cái thang máy. Không phải cái sàn, mà là cả phòng, cả tường, tất cả. Dưới chân họ, bóng tối đang trôi dần lên, lộ rõ là một hồ nước, bọt khí bị khuấy động lên theo đà đi xuống của căn phòng. Trong một thoáng, Rebecca tự hỏi liệu nó có dừng lại chăng, thật hãi hùng nếu bị dìm chết ngộp – và rồi tiếng máy móc nhỏ dần, căn phòng đứng yên trở lại. Giữa âm thanh nhỏ dần của cỗ máy, họ nghe một tiếng click phát ra từ mấy cánh cửa ở góc phía bắc trên đầu.
Cả hai nhìn nhau, Rebecca thấy anh cũng lộ vẻ kinh ngạc chẳng khác gì mình.
”Xem ra chúng ta đã biết phải đi đâu tiếp rồi,” Billy nói, cố gắng nở nụ cười không chút thuyết phục. Rebecca thậm chí còn không định cười. Họ đang bị dẫn dắt – nhưng không biết để được tự do, hay để làm những con cừu giết thịt?
Phải thử thôi. Cả hai không nói gì nữa, mà cùng quay lại và leo lên thang.