Chương 9
Dịch giả: Lioncoeur, Hoa Thần, Christie, Twiness_nast, Beautiful_ada, Machinator
Trong lúc Steve đang đọc to, Rebecca thấy David cứ liên tục nhìn xuống đồng hồ rồi dõi về phía cánh cửa. Cô nghĩ là chưa đến mười phút đâu, nhưng cũng sắp rồi. John và Karen vẫn chưa quay lại.
“… Nơi từng cái được thiết kế để ứng dụng vào việc đo lường khả năng tư duy, cùng với những kỹ thuật ánh xạ theo tỉ lệ kết hợp với độ chính xác xen kẽ…”
Hoàn toàn khô khan, có vẻ là một biên bản của quá trình học dựa trên việc phân tích một số kiểu trắc nghiệm chỉ số thông minh. Hiển nhiên nó được viết bởi một nhà khoa học, thật sự là vậy, căn cứ theo cái lối nói trùng lắp đơn điệu mà nhiều nhà nghiên cứu có khuynh hướng mắc phải, mỗi khi họ cố diễn tả thứ gì phức tạp hơn cái ghế ngồi. Và đó là những gì có được khi Steve truy xuất thông tin về “dãy xanh dương”. Từ lúc bắt đầu tìm hiểu xem căn phòng có thêm gì khác, Rebecca đã phải tự ép mình tập trung, chống lại nỗi sợ hãi kín đáo đang xâm chiếm lấy cô suốt trong cuộc tìm kiếm vô vọng.
"Chín phút."
Ai đó đã dọn sạch sẽ căn phòng rồi, và dọn hết sức kỹ lưỡng. Cô có tìm thấy những cuốn sách, đồ dập ghim, bút bi và bút chì, một đống dây cao su và kẹp giấy, nhưng chẳng có lấy một mảnh giấy chứa thông tin cần thiết, không một mẩu thông tin nào làm manh mối. Việc tìm kiếm trên máy tính cũng chẳng khá hơn; không hề có sơ đồ hay bất cứ thứ gì về T-Virus. Dù ai ở đây đi nữa thì có vẻ là họ đã xóa sạch mọi thông tin bọn cô cần tìm.
"Chỉ có hàng đống hầm bà lằng những thứ chẳng liên quan gì tới tâm thần, chẳng thấy cái gì đề cập đến “xanh dương” hết. Làm thế nào mà chúng ta cho là có thể kiếm ra được cái gì đó ở đây cơ chứ?"
Steve ấn một phím, trông anh chợt tươi tỉnh lên: “Mọi người xem này…”
“Dãy đỏ, đứng trên phương diện tỷ lệ chuẩn hóa, là cơ bản nhất và đơn giản nhất, ứng dụng cho chỉ số thông minh 80. Dãy xanh lá…”
Anh dừng lại, cau mày: “Màn hình tối thui rồi.”
Rebecca ngóc đầu lên từ một cái bàn gần như trống trơn mà cô đang kiểm qua, còn David bước lại chỗ Steve.
“Hệ thống bị hỏng à?”, anh lo lắng hỏi.
Steve vẫn đang cau mày, gõ gõ lên các phím: “Giống như chương trình bị khóa hơn. Tôi không nghĩ… Hơ, cái gì đây?”
“Rebecca”, David nói khẽ, ra hiệu cho cô lại gần xem xét.
Cô đóng cái ngăn kéo chứa đầu các tài liệu hồ sơ lại và tiến đến sau lưng Steve, cúi xuống đọc những thứ đang hiển thị trên màn hình.
"Người làm ra không cần nó. Người mua không muốn nó. Người sử dụng không biết nó."
“Một câu đố”, David nói. “Có ai biết câu trả lời không vậy?”
Chưa ai kịp lên tiếng thì Karen và John đã quay lại, cả hai đều cầm chắc vũ khí. Karen cầm trong tay một mớ giấy rách toạc.
“Khá chật hẹp”, John nói. “Một nửa trong cả tá văn phòng không hề có cửa sổ, duy nhất có một cửa ra ngoài ở hướng bắc.”
Karen gật đầu: “Hầu như phòng nào cũng có tủ hồ sơ, nhưng nó rỗng không. Ngoại trừ cái này, tôi tìm thấy trong một cái quần đùi mắc trong góc kẹt. Ắt là nó bị toạc ra trong lúc chỗ này bị dọn dẹp.”
Cô đưa mớ giấy cho David. Anh lướt qua vài dòng, bất chợt ánh mắt lộ vẻ hăng hái.
Anh quay lại Karen: “Không còn gì khác nữa sao?”
Karen gật đầu: “Phải. Nhưng như vậy chắc cũng đủ cho anh rồi.”
David cầm mớ giấy và đọc to lên.
“Các nhóm tiếp tục vận hành độc lập, nhưng đã cho thấy dấu hiệu cải thiện từ khi điều chỉnh tế bào thính giác.”
“Trong Kịch bản số hai, nếu có nhiều hơn một nhóm Trisquad, nhóm thứ hai (B) không giao chiến nữa khi nhóm đầu tiên (A) đã kết liễu xong (mục tiêu ngừng di chuyển hoặc phát ra tiếng động).”
“Nếu mục tiêu tiếp tục gây chú ý và (A) ngừng tấn công (hết đạn/các cá thể bị loại khỏi vòng chiến hoặc bị thương), B sẽ bắt đầu chiến đấu. Trong phạm vi cho phép, việc tăng cường tuần tra sẽ dẫn đến sự tấn công và giao chiến liên tiếp.”
“Vào lúc này, chúng tôi chưa thành công trong việc chế ngự những khả năng mở rộng giác quan để tạo thành cách ứng xử theo mệnh lệnh. Cách kích thích trực quan của Kịch bản số bốn và số bảy có vẻ vô ích, dù vậy chúng tôi vẫn sẽ cho nhiễm các cá thể mới vào ngày mai, và chờ đợi kết quả tương ứng vào cuối tuần. Kế hoạch ưu tiên của chúng tôi là tiếp tục phát triển thêm nữa năng lực thính giác trước khi ghi nhận cảm ứng nhiệt…”
“Chỗ này bị xé ra…”, David nhìn lên và nói. Karen gật đầu. “Dù vậy nó cũng đã giải thích nhiều chuyện. Tại sao bọn đứng chỗ cửa sau nhà thuyền án binh bất động, còn bọn ở cửa trước vẫn cứ bắn. Tình thế không thay đổi cho tới khi anh cùng Steve dẫn dụ chúng và nhóm thứ hai tiến vào.”
Rebecca cau mày, bản báo cáo này cho thấy một sự thật hiển nhiên: Umbrella đã tiếp tục những thí nghiệm trên người. Từ những gì cô thấy ở Raccoon, T-Virus mất bảy đến tám ngày để xâm chiếm vật chủ, và vật chủ sau đó bị phân hủy trong vòng một tháng.
“Thế mà ở đây lại lây nhiễm cả nhóm và thu thập dữ liệu chỉ trong một tuần? Phải chăng họ đã cấy ghép và cải biến những giác quan? Không thể có đủ thời gian để làm nhiều thứ như vậy, vì các “cá thể” đáng lẽ phải bị phân hủy rồi, nói chi tới chuyện huấn luyện chúng học cách ứng xử …”
Cô cắn môi lo lắng, bất chợt tự hỏi những nhà nghiên cứu ở vịnh Caliban đã làm gì với virus. Nếu họ đã tìm được cách gia tăng tốc độ lây nhiễm, can thiệp lớp màng kết hợp của virus chẳng hạn, làm tăng độ kết dính của nó.
“… Hoặc bằng cách nào đó gia tăng gấp bội các tế bào, cho phép nó tái tạo theo cấp số nhân... chúng ta có thể đang chứng kiến một tiến trình diễn ra tính bằng giờ chứ không phải bằng ngày.”
Đây quả là một ý tưởng kinh tởm, có lẽ cô không muốn đề cập tới nó nữa một khi chưa có thông tin cụ thể hơn. Hơn nữa, nó chẳng làm thay đổi tình thế lúc này; dù nói thế nào thì bọn Trisquad cũng hết sức khó đối phó.
“Dấu hiệu trên cánh cửa phía Bắc cho thấy chúng ta đang ở khu C”, John nói, tiến đến chỗ máy tính. “Cậu có tìm thấy bản đồ không?”
Steve thở dài: “Không, nhưng nhìn xem. Tôi yêu cầu tìm thông tin về dãy xanh dương, rồi nó cho ra những báo cáo về trắc nghiệm chỉ số thông minh, mã màu đi kèm, và rồi thế này đây. Tôi chẳng làm thêm được gì nữa.”
John chăm chú nhìn vào màn hình, lẩn nhẩm: “…Người làm ra không cần nó. Người mua không muốn nó. Người sử dụng không biết nó.”
Karen, đang đọc lại những tài liệu về Trisquad, bất chợt nhìn lên với vẻ hào hứng. “Chờ đã. Tôi biết. Nó là cái quan tài.”
Không biết sao Rebecca chẳng mấy ngạc nhiên khi Karen giải được câu đố; cô có ấn tượng là người phụ nữ này rất quen thuộc với những trò chơi đố mẹo. Mọi người xúm lại quanh Steve khi anh này gõ chữ “quan tài” vào. Màn hình vẫn trơ trơ.
“Anh đang dùng tiếng Mỹ. Hãy thử dùng từ quan tài trong tiếng Anh”,Rebecca gợi ý.
Ngón tay của Steve lại nhảy múa trên bàn phím. Ngay khi anh Enter, câu đố biến mất và thay bởi dòng chữ:
KÍCH HOẠT CÁC DÃY
Kế tiếp là:
BÀI KIỂM TRA SỐ BỐN (KHU A), SỐ BẢY (KHU D), SỐ CHÍN (KHU B)/XANH DƯƠNG ĐỂ TRUY CẬP DỮ LIỆU (KHU E)
“Xanh dương để … thông điệp của Ammon”,Karen nói nhanh. “Chính là nó – thông điệp có liên quan tới dãy xanh dương, nó còn nói, “nhập câu trả lời cho chìa khóa”. Câu trả lời chính là ‘quan tài’…”
“Và các bài kiểm tra là chìa khoá”,David nói. “Còn ba dòng nữa trong tập thơ của Trent, và ‘xanh dương để truy cập’. Các dòng đó chính là đáp án cho bài kiểm tra, đảo ngược số và chữ, cầu vồng thời gian, và đừng đếm. Jill nói rất đúng, đây là những gì giúp cho chúng ta tìm kiếm.”
Rebecca cảm thấy hưng phấn hẳn lên khi David nhặt lấy cây bút trên bàn và lôi mấy trong mớ giấy ra mấy tờ còn dư. Thông tin họ tìm thấy rất có ý nghĩa – Thông điệp của Ammon hẳn phải đề cập đến chuyện gì đó.
“húng ta có thể làm được, bây giờ chúng ta đã có những căn cứ vững chắc rồi …”
David vẽ lên năm ô vuông chia làm hai hàng trên dưới, giống như trên bản đồ của Trent, đánh dấu ô dưới cùng là C. Sau khi ngẫm nghĩ, anh thử điền vào những ô khác, cái tận cùng bên trái là A và lần lượt đánh dấu từ phải sang trái số hiệu các bài kiểm tra tiếp theo.
“Cứ cho là tất cả chúng nằm cùng dãy”,anh nói. “Và chúng ta cần hoàn tất các bài kiểm tra theo thứ tự; có nghĩa là chúng ta phải di chuyển thành hàng ngang trong khu nhà.”
“Và phải tính tới chuyện bọn Trisquad cũng di chuyển được như vậy”,John khẽ nói.
Rebecca thấy sự hưng phấn của mình teo đi, và cô cho là những người khác cũng giống như cô, căn cứ theo dáng vẻ u ám của họ khi nhìn xuống tờ giấy. Cô đã biết sớm muộn gì họ cũng phải rời chỗ này, nhưng không hiểu sao cô cứ trốn tránh suy nghĩ về việc đó, cứ thoái thác cho tới khi phải đối mặt với nó. Và bây giờ nó đang ở trước mắt cô. Bọn Trisquad cũng đang chờ sẵn.
Họ đứng trong bóng tối tại cánh cửa phía bắc, giữa hành lang ẩm thấp, siết lại dây giày, chỉnh lại thắt lưng, lắp đầy đạn vào ổ. David đã chuẩn bị xong, anh quay sang John và gật đầu.
“Mang nó về cho tôi nhé.”
“Anh, Steve và Rebecca sẽ tiếp cận khu tận cùng bên trái. Chờ khi ba người đến nơi an toàn, tôi và Karen sẽ đi thẳng tới. Nếu anh suy đoán chính xác, bọn tôi sẽ ở trong khu D. Nếu không thì là khu B. Bất kể là khu nào thì bọn tôi cũng sẽ lục soát khu nhà, tìm kiếm bài kiểm tra, rồi chờ đến khi anh lộ diện và phát tín hiệu liên lạc”,John nói.
“Và nếu không…”
Karen tiếp lời:“Nếu không thấy anh sau nửa giờ, bọn tôi sẽ quay lại đây, chờ Steve và Rebecca. Bọn tôi sẽ cố hoàn tất bài kiểm tra nếu có thể…”
John cười toe toét, một tia sáng giữa màn đêm u ám. “…Và làm luôn phần của anh.”
“Phải”,David nói. “Tốt lắm.”
Tất cả đã sẵn sàng. Có những biến số không lời giải trong phương trình của họ, có thể có những sai sót với một kế hoạch đơn giản như vậy, nhưng họ phải chọn lấy một giải pháp thôi. Không cách nào lường hết mọi biến cố, nhất là ở một chỗ như thế này, và quyết định chia nhỏ ra sẽ giúp họ có cơ may không bị bọn Trisquad phát hiện.
“Có ai thắc mắc gì trước khi hành động không?”,Rebecca lên tiếng, giọng nói pha chút lo âu. “Em muốn nhắc mọi người một lần nữa về chuyện hết sức cẩn thận khi sờ vào bất cứ thứ gì. Bọn Trisquad mang mầm bệnh trong người, do đó tuyệt đối tránh đến gần chúng, nhất là lỡ có bị thương.”
David rùng mình, nhớ lại những gì cô đã cảnh báo họ - một giọt máu vật chủ có thể chứa hành triệu con virus. Khó mà hài lòng khi nghĩ đến chuyện đó. Một viên đạn chín ly có thể gây sát thương lớn.
“Và bọn chúng không gục xuống khi trúng đạn. Như bộ ba đứa chỗ nhà thuyền ấy, chúng cứ lù lù tiến tới, vẫn nổ súng trong khi máu chảy lênh láng …”
Họ đang chờ hiệu lệnh của anh. David xua những ý nghĩ đó đi, anh mở khóa an toàn trên khẩu súng, đặt tay kia lên chốt cửa.
“Sẵn sàng chưa? Im lặng, nào, đếm đến ba, một … hai … ba.”
Anh đẩy cửa ra và lẩn mình vào màn đêm mát mẻ với những tiếng sóng vỗ thì thầm. Bây giờ có vẻ sáng hơn lúc nãy, trăng tròn đã lên cao, rọi một luồng sáng bạc lên khắp khu hàng rào. Không thấy bóng dáng ai khác.
Thẳng phía trước anh cách chừng hai mươi mét là đích đến của Karen và John, và anh nhẹ nhõm khi thấy cánh cửa trên bức tường bê tông đối diện khu C; vậy là họ sẽ không phải đi vòng để tiến vào trong.
David rón rén di chuyển về bên trái, nép mình dưới cái bóng nhỏ hẹp của bức tường. Anh nhận thấy phía trước mình là khu A, cao, có ống thông gió bên trái và đằng sau. Có cả một quãng đường tối mù mờ dọc theo chiều dài của nó, một cánh cửa, và không có lấy một chỗ ẩn nấp suốt khoảng cách dài ba mươi mét từ đây đến đó. Họ sẽ rất dễ bị tập kích một khi đã rời khu C.
“ Nếu có một bọn chờ sẵn giữa đường…”
Anh ngoái lại, thấy Steve và Rebecca đang bồn chồn và chờ đợi phía sau. Cho dù có phải đi qua một hành lang lửa thì ít nhất anh cũng là người đi đầu, Steve và Rebecca sẽ có đủ thời gian để rút lui.
Anh hít vào thật sâu, nín thở … và tách khỏi bờ tường, chạy lom khom dưới cái bóng che vuông vức của lối vào khu nhà. Ánh sáng vàng vọt và màn đêm nối tiếp nhau trôi qua. Toàn thân anh căng lên, sẵn sàng đón nhận một tia lửa phát ra từ khẩu súng tự động, một tiếng nổ, một cơn đau thấu xương quật anh ngã xuống, nhưng tứ bề vẫn im ắng, âm thanh duy nhất anh nghe thấy là tiếng tim đập thình thịch và tiếng sôi réo của huyết quản. Thời gian dường như dài vô tận, cánh cửa đã dần dần hiện rõ, gần hơn, lớn hơn,…
Những ngón tay của anh đã chạm vào chốt cửa và anh đẩy nó, xộc vào trong bóng tối ngột ngạt. Anh quay người lại, dõi theo Steve và Rebecca đang theo sát phía sau.
David nhanh chóng khép cửa lại thật nhẹ nhàng, anh nhận ra căn phòng trống rỗng, không hề có dấu hiệu của sự sống, và có một cái mùi khó chịu ập đến. Không biết Steve hay Rebecca đã oẹ lên, dấu hiệu của sự kinh hãi ngoài ý muốn. David chộp lấy đèn, biết rõ cái gì đã làm họ khiếp đảm như vậy.
Họ đã gặp một cái mùi kinh khủng lúc vào nhà thuyền, nhưng ở đây nó còn nặng hơn thế cả trăm lần. Cho dù không có dấu hiệu gì gợi ý, nhưng David vẫn biết cái mùi này. Anh từng gặp nó ở một cánh rừng nhiệt đới Nam Mỹ và trong tế đàn ở Idaho, một lần khác ở căn hầm trong nhà một tên giết người hàng loạt. Không ai quên nổi cái mùi của nhiều xác chết thối rữa, thứ mùi ôi của sữa chua và thịt thiu.
“ Có bao nhiêu cái thây không biết?”
Ánh sáng lóe lên, và khi quét qua cái đống lung lay nồng nặc mùi đang chiếm hẳn một góc phòng, David thấy rõ không cách nào đếm được; mấy cái thây vắt vẻo lên nhau, những thớ thịt teo tóp và đen sẫm của những thi thể chồng chất lẫn lộn với nhau, kèn theo một luồng hơi nóng bức ẩm ướt.
“ Có lẽ mười lăm hoặc hai mươi …”
Steve loạng choạng bước ra xa và nôn thốc nôn tháo, tạo ra một thứ âm thanh bất lực và khó chịu trong căn phòng vốn đang yên ắng. David rọi đèn ra những chỗ khác, và anh thấy một cánh cửa ở bức tường phía sau với chữ A màu đen trên đó.
David không nhìn lại cái đống kinh khủng đó nữa, anh đẩy Rebecca về phía cánh cửa đằng sau, kéo Steve theo luôn. Sau khi đã bước qua khỏi cửa, không khí trở nên dễ thở hơn một tí.
Họ đang đứng trong một hành lang không có cửa sổ. Có một công tắc đèn bên cạnh cửa, nhưng David tạm bỏ qua nó, anh cần điều hòa hô hấp trước đã, và chờ cho hai đồng đội của mình lấy hơi.
Có vẻ như họ đã tìm thấy những công nhân Umbrella đang làm việc tại vịnh Caliban, không phải tất cả nhưng ít nhất cũng có một người. David hạ quyết tâm rằng nếu tình cờ giáp mặt chúng, anh sẽ bắn ngay lập tức, khỏi hỏi tới hỏi lui gì hết.
Karen và John đứng ở cửa gần cả phút sau khi những người khác đã đi. Tiếng mở cửa đủ lớn để họ nghe thấy. Không khí lành lạnh tràn vào trong, xa xa có tiếng sóng rì rào, tuyệt nhiên không có tiếng súng, tiếng la hét.
Karen đóng cửa lại và nhìn John, dáng vẻ cô trông nhợt nhạt dưới ánh sáng mù mờ. Giọng cô rất thấp, thậm chí còn có vẻ cực kỳ nghiêm trọng:“Họ vào được rồi. Anh muốn dẫn đầu, hay là muốn tôi đi trước?”
John không kìm được:“Phụ nữ của tôi luôn được ưu tiên”,anh thì thầm. “Và tôi thích như vậy chỉ khi đi với cô, chắc cô hiểu ý tôi chứ?”
Karen thở ra nặng nề, dấu hiệu rành rành của sự tức giận. John cười ranh mãnh, nghĩ đến cái tính dễ nổi cáu của cô ta. Anh ta biết mình không nên chọc tức cô, nhưng thật khó cưỡng lại. Karen Driver giỏi sử dụng vũ khí và là chuyên gia trong việc suy luận, nhưng cô ta cũng là một trong những người nghiêm túc nhất anh từng biết.
“ Mình có trách nhiệm làm cô ta bớt căng thẳng. Nếu bọn tôi có phải chết thì cũng nên cười một trận trước đã…”
Một triết lý đơn giản mà anh khắc ghi trong lòng, sau khi trải qua nhiều tình huống khó khăn trong quá khứ.
“John, trả lời nghiêm túc nào…”
“Tôi đi trước”,anh nhẹ nhàng đáp. “Đợi khi tôi vào được thì hãy nối gót.”
Cô ta nhanh nhẹn gật đầu, lùi ra phía sau lưng anh. Anh thoáng nghĩ tới việc nói với cô rằng anh sẽ chờ cô đằng kia với một nụ cười, nhưng rồi thôi. Họ làm việc chung đã gần năm năm, và anh biết mình đừng nên đi quá xa trước khi làm cô nổi điên. Ranh giới như hiện tại cũng tốt rồi, không nên làm hỏng nó.
Ngay khi đến gần chốt cửa, anh hít một hơi sâu, kìm hãm suy nghĩ hài hước của mình lại để nhường chỗ cho những tư tưởng mà anh hay gọi là “tư tưởng của lính.” Thích hài hước, thích khuất phục đối thủ - anh sở hữu cả hai điều đó, nhưng anh cũng dư biết lúc nào cần phân định rạch ròi chúng với nhau.
“ Bây giờ thì hãy là một hồn ma, hãy trườn vào bóng tối như một cái bóng…”
Anh khẽ khàng mở cửa. Không âm thanh, không động tĩnh. Anh thả lỏng khẩu Beretta, rời bước khỏi khu nhà và tiến nhanh vào bóng đêm phủ ánh trăng bạc, nhắm đến cánh cửa cách đó chừng hai mươi bước. Khối óc người lính mách bảo cho anh biết thực tại, gió lạnh, chân anh giẫm lên nền đất tơi, mùi vị của biển, nhưng con tim mách rằng anh là một hồn ma, đang phiêu phưởng như một cái bóng vô hình trong đêm.
Anh tiếp cận cánh cửa, chạm vào tay nắm kim loại lạnh ngắt. Cánh cửa vẫn trơ trơ. Lối vào đã bị khóa.
Đừng sợ, đừng lo, anh là một cái bóng không ai trông thấy; anh sẽ tìm lối khác. John giơ tay ra hiệu cho Karen chờ, và nhẹ nhàng lướt sang phải.
“ Lặng lẽ và ung dung, một cái bóng vô hình…”
Anh tiếp cận góc nhà và trườn xung quanh nó, mặc cho các giác quan hoạt động và nắm bắt thông tin. Không có động tĩnh trong bóng tối, cảm giác thô nhám của bê tông dưới vai và hông trái, nhịp tim đều đều vững chãi và cơ bắp thả lỏng. Có một cánh cửa khác mở ra phía mặt biển bao la chập chờn, ánh lên tia sáng lành lạnh của kim loại.
Tạch tạch tạch!
Một loạt đạn xới tung nền đất dưới chân anh. John xoay người và nhảy lùi lại, ép sát bức tường và nắm lấy chốt cửa. Từ phía nhà thuyền là một hàng ba đứa…
… John đẩy cửa và lao vào trong, vừa kịp nghe thấy tiếng đạn đập vào lớp kim loại, cách người anh chỉ vài inch và làm cánh cửa kêu lạch cạch.
Anh giữ cửa mở bằng chân, liếc mắt nhìn qua khe để định vị chỗ khai hỏa, và siết cò trong khi một mảng bê tông lẫn bụi khác rơi từ trên tường xuống. Khẩu súng giật mạnh, giờ đây nó là một phần cánh tay của anh, còn anh chẳng khác nào một con thú, một con thú với những viên đạn sấm sét, hơi thở ngắt quãng, lúc này anh tự thấy mình vừa là người lại vừa là một sứ giả của tử thần.
Anh nhìn lại và thấy lằn ranh hai bên đã gần hơn, ba cái bóng rõ dần. John bắn thêm một phát nữa và cúi xuống dưới cánh cửa đang mở … khi nhìn ra, anh thấy chỉ còn hai đứa.
Thình lình.
Phía sau anh.
John xoay người và trông thấy chúng, hai tên, cách mười bước về phía đông bắc khu nhà. Cả hai cầm súng trường tự động.
Nhưng không di chuyển và cũng không nổ súng.
Anh vô cùng kinh hoảng, giống như có một con quái vật đang rên rỉ gào thét trong ruột gan anh, sẵn sàng nhai anh ngấu nghiến từ trong ra ngoài –
“ Chết rồi.”
Tiếng đạn M-16 vẫn đang đến gần, nhưng lúc này anh chỉ thấy có mấy sinh vật phía trước, đang dõi theo anh bằng cặp mắt trống rỗng thất thần, đung đưa trên những cặp chân loạng choạng. Đứa bên trái chỉ có một nửa mặt; dưới mũi nó là một đống mô mềm xèo ướt át, những thớ thịt nhùng nhằng ướt nhẹp đen thui đang treo lủng lẳng từng khúc. Đứa bên phải trông có vẻ nguyên vẹn hơn, chỉ trắng bệch và bẩn thỉu… cho tới khi anh thấy bộ ruột dường như đã tiêu tùng của nó, từng khúc ruột ướt sũng rơi ra từ cái áo dính đầy máu.
“ Không tấn công chừng nào nhóm A chưa xong.”
John bước lùi vào trong bóng tối của khu nhà, dùng một tay giữ cửa mở về phía cặp thây sống vẫn đang nhả đạn bên ngoài. Anh cúi người và nhắm cẩn thận hết mức có thể, cố hết sức đè nén nỗi kinh hoàng. Chẳng có đứa nào thèm di chuyển hay tự vệ, chỉ đứng đó, lắc lư trên mấy cái chân đã mục, nhìn về phía anh.
Bam! Bam!
Hai phát ngay đầu, tiếng nổ chát chúa xen lẫn tiếng đạn M-16 liên hồi. Trước khi chúng kịp ngã xuống, John ngeh thấy những tiếng nổ của loại đạn chín ly vang trong màn đêm, át đi tiếng súng trường tự động.
“ Karen…”
Anh quét mắt về phía cửa và thấy bóng dáng ngã gục của bọn tập kích cách chừng trăm bước, một trong số chúng vẫn bắn khi đã ngã, cánh tay mục nát cầm súng đang chĩa thẳng lên trời. Karen lao ra giữa hai khu nhà, súng lăm lăm chĩa vào những cái thây đang co giật, lưng quay về phía John.
“ Các nhóm không tấn công.”
“Đừng bắn nó! Lại đây, kệ nó đi!”
Cô quay người lại, động tác vừa uyển chuyển vừa thanh nhã, chạy thẳng về phía anh. Anh đóng sầm cánh cửa ngay khi cô lao qua. Tiếng súng tự động chuyển thành những âm thanh lộp bộp rời rạc.
John tựa lưng vào cửa trong khi Karen lần tìm lỗ khóa. Trí óc anh vẫn đang gào thét, rằng anh đã thấy những thứ không thể tin nổi, rằng anh vừa giết hai người chết, rằng anh đừng hòng quên đi những hình ảnh đó cho tới khi phát cuồng.
“ Không thể nào, không tin nổi, trước đây mình không tin nổi, không biết rằng chúng nó đã CHẾT và ĐANG THỐI RỮA và đang.”
Tiếng thì thầm ngắt ngang của Karen xua tan bóng đêm, phá vỡ chuỗi suy tưởng lẩn quẩn quay cuồng của anh.
“Hey, John, anh có ổn không?”
Anh chớp chớp mắt, chậm chạp nhận ra tiếng nói.
“Đi trước”,cô nói tiếp. “Có phải ý anh là mong đợi mọi thứ sẽ như thế này không?”
Jonh có thể cảm nhận sự kinh ngạc đang dần thế chỗ cho những suy nghĩ kinh hoàng lẩn quẩn, cơn bối rối đã qua đi, lý trí đang trở lại với anh.
“Không có gì đáng cười đâu nhé”.Anh nói.
Sau một cuộc rượt đuổi, bây giờ họ đã có thể cười rồi.
Dịch giả: Lioncoeur, Hoa Thần, Christie, Twiness_nast, Beautiful_ada, Machinator
Trong lúc Steve đang đọc to, Rebecca thấy David cứ liên tục nhìn xuống đồng hồ rồi dõi về phía cánh cửa. Cô nghĩ là chưa đến mười phút đâu, nhưng cũng sắp rồi. John và Karen vẫn chưa quay lại.
“… Nơi từng cái được thiết kế để ứng dụng vào việc đo lường khả năng tư duy, cùng với những kỹ thuật ánh xạ theo tỉ lệ kết hợp với độ chính xác xen kẽ…”
Hoàn toàn khô khan, có vẻ là một biên bản của quá trình học dựa trên việc phân tích một số kiểu trắc nghiệm chỉ số thông minh. Hiển nhiên nó được viết bởi một nhà khoa học, thật sự là vậy, căn cứ theo cái lối nói trùng lắp đơn điệu mà nhiều nhà nghiên cứu có khuynh hướng mắc phải, mỗi khi họ cố diễn tả thứ gì phức tạp hơn cái ghế ngồi. Và đó là những gì có được khi Steve truy xuất thông tin về “dãy xanh dương”. Từ lúc bắt đầu tìm hiểu xem căn phòng có thêm gì khác, Rebecca đã phải tự ép mình tập trung, chống lại nỗi sợ hãi kín đáo đang xâm chiếm lấy cô suốt trong cuộc tìm kiếm vô vọng.
"Chín phút."
Ai đó đã dọn sạch sẽ căn phòng rồi, và dọn hết sức kỹ lưỡng. Cô có tìm thấy những cuốn sách, đồ dập ghim, bút bi và bút chì, một đống dây cao su và kẹp giấy, nhưng chẳng có lấy một mảnh giấy chứa thông tin cần thiết, không một mẩu thông tin nào làm manh mối. Việc tìm kiếm trên máy tính cũng chẳng khá hơn; không hề có sơ đồ hay bất cứ thứ gì về T-Virus. Dù ai ở đây đi nữa thì có vẻ là họ đã xóa sạch mọi thông tin bọn cô cần tìm.
"Chỉ có hàng đống hầm bà lằng những thứ chẳng liên quan gì tới tâm thần, chẳng thấy cái gì đề cập đến “xanh dương” hết. Làm thế nào mà chúng ta cho là có thể kiếm ra được cái gì đó ở đây cơ chứ?"
Steve ấn một phím, trông anh chợt tươi tỉnh lên: “Mọi người xem này…”
“Dãy đỏ, đứng trên phương diện tỷ lệ chuẩn hóa, là cơ bản nhất và đơn giản nhất, ứng dụng cho chỉ số thông minh 80. Dãy xanh lá…”
Anh dừng lại, cau mày: “Màn hình tối thui rồi.”
Rebecca ngóc đầu lên từ một cái bàn gần như trống trơn mà cô đang kiểm qua, còn David bước lại chỗ Steve.
“Hệ thống bị hỏng à?”, anh lo lắng hỏi.
Steve vẫn đang cau mày, gõ gõ lên các phím: “Giống như chương trình bị khóa hơn. Tôi không nghĩ… Hơ, cái gì đây?”
“Rebecca”, David nói khẽ, ra hiệu cho cô lại gần xem xét.
Cô đóng cái ngăn kéo chứa đầu các tài liệu hồ sơ lại và tiến đến sau lưng Steve, cúi xuống đọc những thứ đang hiển thị trên màn hình.
"Người làm ra không cần nó. Người mua không muốn nó. Người sử dụng không biết nó."
“Một câu đố”, David nói. “Có ai biết câu trả lời không vậy?”
Chưa ai kịp lên tiếng thì Karen và John đã quay lại, cả hai đều cầm chắc vũ khí. Karen cầm trong tay một mớ giấy rách toạc.
“Khá chật hẹp”, John nói. “Một nửa trong cả tá văn phòng không hề có cửa sổ, duy nhất có một cửa ra ngoài ở hướng bắc.”
Karen gật đầu: “Hầu như phòng nào cũng có tủ hồ sơ, nhưng nó rỗng không. Ngoại trừ cái này, tôi tìm thấy trong một cái quần đùi mắc trong góc kẹt. Ắt là nó bị toạc ra trong lúc chỗ này bị dọn dẹp.”
Cô đưa mớ giấy cho David. Anh lướt qua vài dòng, bất chợt ánh mắt lộ vẻ hăng hái.
Anh quay lại Karen: “Không còn gì khác nữa sao?”
Karen gật đầu: “Phải. Nhưng như vậy chắc cũng đủ cho anh rồi.”
David cầm mớ giấy và đọc to lên.
“Các nhóm tiếp tục vận hành độc lập, nhưng đã cho thấy dấu hiệu cải thiện từ khi điều chỉnh tế bào thính giác.”
“Trong Kịch bản số hai, nếu có nhiều hơn một nhóm Trisquad, nhóm thứ hai (B) không giao chiến nữa khi nhóm đầu tiên (A) đã kết liễu xong (mục tiêu ngừng di chuyển hoặc phát ra tiếng động).”
“Nếu mục tiêu tiếp tục gây chú ý và (A) ngừng tấn công (hết đạn/các cá thể bị loại khỏi vòng chiến hoặc bị thương), B sẽ bắt đầu chiến đấu. Trong phạm vi cho phép, việc tăng cường tuần tra sẽ dẫn đến sự tấn công và giao chiến liên tiếp.”
“Vào lúc này, chúng tôi chưa thành công trong việc chế ngự những khả năng mở rộng giác quan để tạo thành cách ứng xử theo mệnh lệnh. Cách kích thích trực quan của Kịch bản số bốn và số bảy có vẻ vô ích, dù vậy chúng tôi vẫn sẽ cho nhiễm các cá thể mới vào ngày mai, và chờ đợi kết quả tương ứng vào cuối tuần. Kế hoạch ưu tiên của chúng tôi là tiếp tục phát triển thêm nữa năng lực thính giác trước khi ghi nhận cảm ứng nhiệt…”
“Chỗ này bị xé ra…”, David nhìn lên và nói. Karen gật đầu. “Dù vậy nó cũng đã giải thích nhiều chuyện. Tại sao bọn đứng chỗ cửa sau nhà thuyền án binh bất động, còn bọn ở cửa trước vẫn cứ bắn. Tình thế không thay đổi cho tới khi anh cùng Steve dẫn dụ chúng và nhóm thứ hai tiến vào.”
Rebecca cau mày, bản báo cáo này cho thấy một sự thật hiển nhiên: Umbrella đã tiếp tục những thí nghiệm trên người. Từ những gì cô thấy ở Raccoon, T-Virus mất bảy đến tám ngày để xâm chiếm vật chủ, và vật chủ sau đó bị phân hủy trong vòng một tháng.
“Thế mà ở đây lại lây nhiễm cả nhóm và thu thập dữ liệu chỉ trong một tuần? Phải chăng họ đã cấy ghép và cải biến những giác quan? Không thể có đủ thời gian để làm nhiều thứ như vậy, vì các “cá thể” đáng lẽ phải bị phân hủy rồi, nói chi tới chuyện huấn luyện chúng học cách ứng xử …”
Cô cắn môi lo lắng, bất chợt tự hỏi những nhà nghiên cứu ở vịnh Caliban đã làm gì với virus. Nếu họ đã tìm được cách gia tăng tốc độ lây nhiễm, can thiệp lớp màng kết hợp của virus chẳng hạn, làm tăng độ kết dính của nó.
“… Hoặc bằng cách nào đó gia tăng gấp bội các tế bào, cho phép nó tái tạo theo cấp số nhân... chúng ta có thể đang chứng kiến một tiến trình diễn ra tính bằng giờ chứ không phải bằng ngày.”
Đây quả là một ý tưởng kinh tởm, có lẽ cô không muốn đề cập tới nó nữa một khi chưa có thông tin cụ thể hơn. Hơn nữa, nó chẳng làm thay đổi tình thế lúc này; dù nói thế nào thì bọn Trisquad cũng hết sức khó đối phó.
“Dấu hiệu trên cánh cửa phía Bắc cho thấy chúng ta đang ở khu C”, John nói, tiến đến chỗ máy tính. “Cậu có tìm thấy bản đồ không?”
Steve thở dài: “Không, nhưng nhìn xem. Tôi yêu cầu tìm thông tin về dãy xanh dương, rồi nó cho ra những báo cáo về trắc nghiệm chỉ số thông minh, mã màu đi kèm, và rồi thế này đây. Tôi chẳng làm thêm được gì nữa.”
John chăm chú nhìn vào màn hình, lẩn nhẩm: “…Người làm ra không cần nó. Người mua không muốn nó. Người sử dụng không biết nó.”
Karen, đang đọc lại những tài liệu về Trisquad, bất chợt nhìn lên với vẻ hào hứng. “Chờ đã. Tôi biết. Nó là cái quan tài.”
Không biết sao Rebecca chẳng mấy ngạc nhiên khi Karen giải được câu đố; cô có ấn tượng là người phụ nữ này rất quen thuộc với những trò chơi đố mẹo. Mọi người xúm lại quanh Steve khi anh này gõ chữ “quan tài” vào. Màn hình vẫn trơ trơ.
“Anh đang dùng tiếng Mỹ. Hãy thử dùng từ quan tài trong tiếng Anh”,Rebecca gợi ý.
Ngón tay của Steve lại nhảy múa trên bàn phím. Ngay khi anh Enter, câu đố biến mất và thay bởi dòng chữ:
KÍCH HOẠT CÁC DÃY
Kế tiếp là:
BÀI KIỂM TRA SỐ BỐN (KHU A), SỐ BẢY (KHU D), SỐ CHÍN (KHU B)/XANH DƯƠNG ĐỂ TRUY CẬP DỮ LIỆU (KHU E)
“Xanh dương để … thông điệp của Ammon”,Karen nói nhanh. “Chính là nó – thông điệp có liên quan tới dãy xanh dương, nó còn nói, “nhập câu trả lời cho chìa khóa”. Câu trả lời chính là ‘quan tài’…”
“Và các bài kiểm tra là chìa khoá”,David nói. “Còn ba dòng nữa trong tập thơ của Trent, và ‘xanh dương để truy cập’. Các dòng đó chính là đáp án cho bài kiểm tra, đảo ngược số và chữ, cầu vồng thời gian, và đừng đếm. Jill nói rất đúng, đây là những gì giúp cho chúng ta tìm kiếm.”
Rebecca cảm thấy hưng phấn hẳn lên khi David nhặt lấy cây bút trên bàn và lôi mấy trong mớ giấy ra mấy tờ còn dư. Thông tin họ tìm thấy rất có ý nghĩa – Thông điệp của Ammon hẳn phải đề cập đến chuyện gì đó.
“húng ta có thể làm được, bây giờ chúng ta đã có những căn cứ vững chắc rồi …”
David vẽ lên năm ô vuông chia làm hai hàng trên dưới, giống như trên bản đồ của Trent, đánh dấu ô dưới cùng là C. Sau khi ngẫm nghĩ, anh thử điền vào những ô khác, cái tận cùng bên trái là A và lần lượt đánh dấu từ phải sang trái số hiệu các bài kiểm tra tiếp theo.
“Cứ cho là tất cả chúng nằm cùng dãy”,anh nói. “Và chúng ta cần hoàn tất các bài kiểm tra theo thứ tự; có nghĩa là chúng ta phải di chuyển thành hàng ngang trong khu nhà.”
“Và phải tính tới chuyện bọn Trisquad cũng di chuyển được như vậy”,John khẽ nói.
Rebecca thấy sự hưng phấn của mình teo đi, và cô cho là những người khác cũng giống như cô, căn cứ theo dáng vẻ u ám của họ khi nhìn xuống tờ giấy. Cô đã biết sớm muộn gì họ cũng phải rời chỗ này, nhưng không hiểu sao cô cứ trốn tránh suy nghĩ về việc đó, cứ thoái thác cho tới khi phải đối mặt với nó. Và bây giờ nó đang ở trước mắt cô. Bọn Trisquad cũng đang chờ sẵn.
Họ đứng trong bóng tối tại cánh cửa phía bắc, giữa hành lang ẩm thấp, siết lại dây giày, chỉnh lại thắt lưng, lắp đầy đạn vào ổ. David đã chuẩn bị xong, anh quay sang John và gật đầu.
“Mang nó về cho tôi nhé.”
“Anh, Steve và Rebecca sẽ tiếp cận khu tận cùng bên trái. Chờ khi ba người đến nơi an toàn, tôi và Karen sẽ đi thẳng tới. Nếu anh suy đoán chính xác, bọn tôi sẽ ở trong khu D. Nếu không thì là khu B. Bất kể là khu nào thì bọn tôi cũng sẽ lục soát khu nhà, tìm kiếm bài kiểm tra, rồi chờ đến khi anh lộ diện và phát tín hiệu liên lạc”,John nói.
“Và nếu không…”
Karen tiếp lời:“Nếu không thấy anh sau nửa giờ, bọn tôi sẽ quay lại đây, chờ Steve và Rebecca. Bọn tôi sẽ cố hoàn tất bài kiểm tra nếu có thể…”
John cười toe toét, một tia sáng giữa màn đêm u ám. “…Và làm luôn phần của anh.”
“Phải”,David nói. “Tốt lắm.”
Tất cả đã sẵn sàng. Có những biến số không lời giải trong phương trình của họ, có thể có những sai sót với một kế hoạch đơn giản như vậy, nhưng họ phải chọn lấy một giải pháp thôi. Không cách nào lường hết mọi biến cố, nhất là ở một chỗ như thế này, và quyết định chia nhỏ ra sẽ giúp họ có cơ may không bị bọn Trisquad phát hiện.
“Có ai thắc mắc gì trước khi hành động không?”,Rebecca lên tiếng, giọng nói pha chút lo âu. “Em muốn nhắc mọi người một lần nữa về chuyện hết sức cẩn thận khi sờ vào bất cứ thứ gì. Bọn Trisquad mang mầm bệnh trong người, do đó tuyệt đối tránh đến gần chúng, nhất là lỡ có bị thương.”
David rùng mình, nhớ lại những gì cô đã cảnh báo họ - một giọt máu vật chủ có thể chứa hành triệu con virus. Khó mà hài lòng khi nghĩ đến chuyện đó. Một viên đạn chín ly có thể gây sát thương lớn.
“Và bọn chúng không gục xuống khi trúng đạn. Như bộ ba đứa chỗ nhà thuyền ấy, chúng cứ lù lù tiến tới, vẫn nổ súng trong khi máu chảy lênh láng …”
Họ đang chờ hiệu lệnh của anh. David xua những ý nghĩ đó đi, anh mở khóa an toàn trên khẩu súng, đặt tay kia lên chốt cửa.
“Sẵn sàng chưa? Im lặng, nào, đếm đến ba, một … hai … ba.”
Anh đẩy cửa ra và lẩn mình vào màn đêm mát mẻ với những tiếng sóng vỗ thì thầm. Bây giờ có vẻ sáng hơn lúc nãy, trăng tròn đã lên cao, rọi một luồng sáng bạc lên khắp khu hàng rào. Không thấy bóng dáng ai khác.
Thẳng phía trước anh cách chừng hai mươi mét là đích đến của Karen và John, và anh nhẹ nhõm khi thấy cánh cửa trên bức tường bê tông đối diện khu C; vậy là họ sẽ không phải đi vòng để tiến vào trong.
David rón rén di chuyển về bên trái, nép mình dưới cái bóng nhỏ hẹp của bức tường. Anh nhận thấy phía trước mình là khu A, cao, có ống thông gió bên trái và đằng sau. Có cả một quãng đường tối mù mờ dọc theo chiều dài của nó, một cánh cửa, và không có lấy một chỗ ẩn nấp suốt khoảng cách dài ba mươi mét từ đây đến đó. Họ sẽ rất dễ bị tập kích một khi đã rời khu C.
“ Nếu có một bọn chờ sẵn giữa đường…”
Anh ngoái lại, thấy Steve và Rebecca đang bồn chồn và chờ đợi phía sau. Cho dù có phải đi qua một hành lang lửa thì ít nhất anh cũng là người đi đầu, Steve và Rebecca sẽ có đủ thời gian để rút lui.
Anh hít vào thật sâu, nín thở … và tách khỏi bờ tường, chạy lom khom dưới cái bóng che vuông vức của lối vào khu nhà. Ánh sáng vàng vọt và màn đêm nối tiếp nhau trôi qua. Toàn thân anh căng lên, sẵn sàng đón nhận một tia lửa phát ra từ khẩu súng tự động, một tiếng nổ, một cơn đau thấu xương quật anh ngã xuống, nhưng tứ bề vẫn im ắng, âm thanh duy nhất anh nghe thấy là tiếng tim đập thình thịch và tiếng sôi réo của huyết quản. Thời gian dường như dài vô tận, cánh cửa đã dần dần hiện rõ, gần hơn, lớn hơn,…
Những ngón tay của anh đã chạm vào chốt cửa và anh đẩy nó, xộc vào trong bóng tối ngột ngạt. Anh quay người lại, dõi theo Steve và Rebecca đang theo sát phía sau.
David nhanh chóng khép cửa lại thật nhẹ nhàng, anh nhận ra căn phòng trống rỗng, không hề có dấu hiệu của sự sống, và có một cái mùi khó chịu ập đến. Không biết Steve hay Rebecca đã oẹ lên, dấu hiệu của sự kinh hãi ngoài ý muốn. David chộp lấy đèn, biết rõ cái gì đã làm họ khiếp đảm như vậy.
Họ đã gặp một cái mùi kinh khủng lúc vào nhà thuyền, nhưng ở đây nó còn nặng hơn thế cả trăm lần. Cho dù không có dấu hiệu gì gợi ý, nhưng David vẫn biết cái mùi này. Anh từng gặp nó ở một cánh rừng nhiệt đới Nam Mỹ và trong tế đàn ở Idaho, một lần khác ở căn hầm trong nhà một tên giết người hàng loạt. Không ai quên nổi cái mùi của nhiều xác chết thối rữa, thứ mùi ôi của sữa chua và thịt thiu.
“ Có bao nhiêu cái thây không biết?”
Ánh sáng lóe lên, và khi quét qua cái đống lung lay nồng nặc mùi đang chiếm hẳn một góc phòng, David thấy rõ không cách nào đếm được; mấy cái thây vắt vẻo lên nhau, những thớ thịt teo tóp và đen sẫm của những thi thể chồng chất lẫn lộn với nhau, kèn theo một luồng hơi nóng bức ẩm ướt.
“ Có lẽ mười lăm hoặc hai mươi …”
Steve loạng choạng bước ra xa và nôn thốc nôn tháo, tạo ra một thứ âm thanh bất lực và khó chịu trong căn phòng vốn đang yên ắng. David rọi đèn ra những chỗ khác, và anh thấy một cánh cửa ở bức tường phía sau với chữ A màu đen trên đó.
David không nhìn lại cái đống kinh khủng đó nữa, anh đẩy Rebecca về phía cánh cửa đằng sau, kéo Steve theo luôn. Sau khi đã bước qua khỏi cửa, không khí trở nên dễ thở hơn một tí.
Họ đang đứng trong một hành lang không có cửa sổ. Có một công tắc đèn bên cạnh cửa, nhưng David tạm bỏ qua nó, anh cần điều hòa hô hấp trước đã, và chờ cho hai đồng đội của mình lấy hơi.
Có vẻ như họ đã tìm thấy những công nhân Umbrella đang làm việc tại vịnh Caliban, không phải tất cả nhưng ít nhất cũng có một người. David hạ quyết tâm rằng nếu tình cờ giáp mặt chúng, anh sẽ bắn ngay lập tức, khỏi hỏi tới hỏi lui gì hết.
Karen và John đứng ở cửa gần cả phút sau khi những người khác đã đi. Tiếng mở cửa đủ lớn để họ nghe thấy. Không khí lành lạnh tràn vào trong, xa xa có tiếng sóng rì rào, tuyệt nhiên không có tiếng súng, tiếng la hét.
Karen đóng cửa lại và nhìn John, dáng vẻ cô trông nhợt nhạt dưới ánh sáng mù mờ. Giọng cô rất thấp, thậm chí còn có vẻ cực kỳ nghiêm trọng:“Họ vào được rồi. Anh muốn dẫn đầu, hay là muốn tôi đi trước?”
John không kìm được:“Phụ nữ của tôi luôn được ưu tiên”,anh thì thầm. “Và tôi thích như vậy chỉ khi đi với cô, chắc cô hiểu ý tôi chứ?”
Karen thở ra nặng nề, dấu hiệu rành rành của sự tức giận. John cười ranh mãnh, nghĩ đến cái tính dễ nổi cáu của cô ta. Anh ta biết mình không nên chọc tức cô, nhưng thật khó cưỡng lại. Karen Driver giỏi sử dụng vũ khí và là chuyên gia trong việc suy luận, nhưng cô ta cũng là một trong những người nghiêm túc nhất anh từng biết.
“ Mình có trách nhiệm làm cô ta bớt căng thẳng. Nếu bọn tôi có phải chết thì cũng nên cười một trận trước đã…”
Một triết lý đơn giản mà anh khắc ghi trong lòng, sau khi trải qua nhiều tình huống khó khăn trong quá khứ.
“John, trả lời nghiêm túc nào…”
“Tôi đi trước”,anh nhẹ nhàng đáp. “Đợi khi tôi vào được thì hãy nối gót.”
Cô ta nhanh nhẹn gật đầu, lùi ra phía sau lưng anh. Anh thoáng nghĩ tới việc nói với cô rằng anh sẽ chờ cô đằng kia với một nụ cười, nhưng rồi thôi. Họ làm việc chung đã gần năm năm, và anh biết mình đừng nên đi quá xa trước khi làm cô nổi điên. Ranh giới như hiện tại cũng tốt rồi, không nên làm hỏng nó.
Ngay khi đến gần chốt cửa, anh hít một hơi sâu, kìm hãm suy nghĩ hài hước của mình lại để nhường chỗ cho những tư tưởng mà anh hay gọi là “tư tưởng của lính.” Thích hài hước, thích khuất phục đối thủ - anh sở hữu cả hai điều đó, nhưng anh cũng dư biết lúc nào cần phân định rạch ròi chúng với nhau.
“ Bây giờ thì hãy là một hồn ma, hãy trườn vào bóng tối như một cái bóng…”
Anh khẽ khàng mở cửa. Không âm thanh, không động tĩnh. Anh thả lỏng khẩu Beretta, rời bước khỏi khu nhà và tiến nhanh vào bóng đêm phủ ánh trăng bạc, nhắm đến cánh cửa cách đó chừng hai mươi bước. Khối óc người lính mách bảo cho anh biết thực tại, gió lạnh, chân anh giẫm lên nền đất tơi, mùi vị của biển, nhưng con tim mách rằng anh là một hồn ma, đang phiêu phưởng như một cái bóng vô hình trong đêm.
Anh tiếp cận cánh cửa, chạm vào tay nắm kim loại lạnh ngắt. Cánh cửa vẫn trơ trơ. Lối vào đã bị khóa.
Đừng sợ, đừng lo, anh là một cái bóng không ai trông thấy; anh sẽ tìm lối khác. John giơ tay ra hiệu cho Karen chờ, và nhẹ nhàng lướt sang phải.
“ Lặng lẽ và ung dung, một cái bóng vô hình…”
Anh tiếp cận góc nhà và trườn xung quanh nó, mặc cho các giác quan hoạt động và nắm bắt thông tin. Không có động tĩnh trong bóng tối, cảm giác thô nhám của bê tông dưới vai và hông trái, nhịp tim đều đều vững chãi và cơ bắp thả lỏng. Có một cánh cửa khác mở ra phía mặt biển bao la chập chờn, ánh lên tia sáng lành lạnh của kim loại.
Tạch tạch tạch!
Một loạt đạn xới tung nền đất dưới chân anh. John xoay người và nhảy lùi lại, ép sát bức tường và nắm lấy chốt cửa. Từ phía nhà thuyền là một hàng ba đứa…
… John đẩy cửa và lao vào trong, vừa kịp nghe thấy tiếng đạn đập vào lớp kim loại, cách người anh chỉ vài inch và làm cánh cửa kêu lạch cạch.
Anh giữ cửa mở bằng chân, liếc mắt nhìn qua khe để định vị chỗ khai hỏa, và siết cò trong khi một mảng bê tông lẫn bụi khác rơi từ trên tường xuống. Khẩu súng giật mạnh, giờ đây nó là một phần cánh tay của anh, còn anh chẳng khác nào một con thú, một con thú với những viên đạn sấm sét, hơi thở ngắt quãng, lúc này anh tự thấy mình vừa là người lại vừa là một sứ giả của tử thần.
Anh nhìn lại và thấy lằn ranh hai bên đã gần hơn, ba cái bóng rõ dần. John bắn thêm một phát nữa và cúi xuống dưới cánh cửa đang mở … khi nhìn ra, anh thấy chỉ còn hai đứa.
Thình lình.
Phía sau anh.
John xoay người và trông thấy chúng, hai tên, cách mười bước về phía đông bắc khu nhà. Cả hai cầm súng trường tự động.
Nhưng không di chuyển và cũng không nổ súng.
Anh vô cùng kinh hoảng, giống như có một con quái vật đang rên rỉ gào thét trong ruột gan anh, sẵn sàng nhai anh ngấu nghiến từ trong ra ngoài –
“ Chết rồi.”
Tiếng đạn M-16 vẫn đang đến gần, nhưng lúc này anh chỉ thấy có mấy sinh vật phía trước, đang dõi theo anh bằng cặp mắt trống rỗng thất thần, đung đưa trên những cặp chân loạng choạng. Đứa bên trái chỉ có một nửa mặt; dưới mũi nó là một đống mô mềm xèo ướt át, những thớ thịt nhùng nhằng ướt nhẹp đen thui đang treo lủng lẳng từng khúc. Đứa bên phải trông có vẻ nguyên vẹn hơn, chỉ trắng bệch và bẩn thỉu… cho tới khi anh thấy bộ ruột dường như đã tiêu tùng của nó, từng khúc ruột ướt sũng rơi ra từ cái áo dính đầy máu.
“ Không tấn công chừng nào nhóm A chưa xong.”
John bước lùi vào trong bóng tối của khu nhà, dùng một tay giữ cửa mở về phía cặp thây sống vẫn đang nhả đạn bên ngoài. Anh cúi người và nhắm cẩn thận hết mức có thể, cố hết sức đè nén nỗi kinh hoàng. Chẳng có đứa nào thèm di chuyển hay tự vệ, chỉ đứng đó, lắc lư trên mấy cái chân đã mục, nhìn về phía anh.
Bam! Bam!
Hai phát ngay đầu, tiếng nổ chát chúa xen lẫn tiếng đạn M-16 liên hồi. Trước khi chúng kịp ngã xuống, John ngeh thấy những tiếng nổ của loại đạn chín ly vang trong màn đêm, át đi tiếng súng trường tự động.
“ Karen…”
Anh quét mắt về phía cửa và thấy bóng dáng ngã gục của bọn tập kích cách chừng trăm bước, một trong số chúng vẫn bắn khi đã ngã, cánh tay mục nát cầm súng đang chĩa thẳng lên trời. Karen lao ra giữa hai khu nhà, súng lăm lăm chĩa vào những cái thây đang co giật, lưng quay về phía John.
“ Các nhóm không tấn công.”
“Đừng bắn nó! Lại đây, kệ nó đi!”
Cô quay người lại, động tác vừa uyển chuyển vừa thanh nhã, chạy thẳng về phía anh. Anh đóng sầm cánh cửa ngay khi cô lao qua. Tiếng súng tự động chuyển thành những âm thanh lộp bộp rời rạc.
John tựa lưng vào cửa trong khi Karen lần tìm lỗ khóa. Trí óc anh vẫn đang gào thét, rằng anh đã thấy những thứ không thể tin nổi, rằng anh vừa giết hai người chết, rằng anh đừng hòng quên đi những hình ảnh đó cho tới khi phát cuồng.
“ Không thể nào, không tin nổi, trước đây mình không tin nổi, không biết rằng chúng nó đã CHẾT và ĐANG THỐI RỮA và đang.”
Tiếng thì thầm ngắt ngang của Karen xua tan bóng đêm, phá vỡ chuỗi suy tưởng lẩn quẩn quay cuồng của anh.
“Hey, John, anh có ổn không?”
Anh chớp chớp mắt, chậm chạp nhận ra tiếng nói.
“Đi trước”,cô nói tiếp. “Có phải ý anh là mong đợi mọi thứ sẽ như thế này không?”
Jonh có thể cảm nhận sự kinh ngạc đang dần thế chỗ cho những suy nghĩ kinh hoàng lẩn quẩn, cơn bối rối đã qua đi, lý trí đang trở lại với anh.
“Không có gì đáng cười đâu nhé”.Anh nói.
Sau một cuộc rượt đuổi, bây giờ họ đã có thể cười rồi.