Chương 4
Họ đến thành phố vào xế chiều, Carlos kiểm tra đồng hồ lúc đo 1650, chuẩn bị đáp xuống khu vực bỏ hoang. Hình như gần đây có phòng thí nghiệm Umbrella dưới lòng đất; ít nhất đó là điều họ được thông báo ở buổi họp.
Carlos sắp hàng, đeo khẩu tiểu liên, móc khóa dây dùng để xuống từ máy bay, sẵn sàng đợi Hirami mở cửa. Trước Carlos là Randy Thomas, một trong số người thân thiện trong đội A. Randy quay lại nhìn anh và giả vờ bực mình, chĩa ngón tay trỏ thành cây súng về phía Carlos. Anh cười, ôm lấy bụng như bị trúng đạn thật. Trò đùa ngu ngốc, Carlos thấy mình thoải mái một chút. Chỉ huy họ mở cửa, tiếng động cơ át vào cabin. Lần lượt từng cặp hai người phía trước Carlos tuột dây xuống. Carlos bước gần tới cửa, cố chống chọi với cơn gió quan sát nơi họ đáp xuống. Bóng trực thăng trải dài trong ánh nắng một ngày sắp hết, phía dưới người những trung đội khác đang sắp hàng theo đội. Tới lượt anh; Carlos bước ra ngoài vài giây sau Randy, cảm giác rơi tự do như ép ngược anh. Thoáng bầu trời, Carlos chạm đất, mở khóa dây và nhanh bước tới nơi Hirami đứng.
Vài phút sau, tất cả đều xuống đất. Gần như đồng loạt, bốn chiếc trực thăng hướng về phía tây, âm thanh động cơ nhỏ dần cùng lúc hoàng hôn rọi tia nắng lên đội hình. Carlos cảnh giác, sẵn sàng khi mỗi đội và chỉ huy trung đội chỉ về nhiều hướng khác nhau, nơi họ chỉ định phải đi trước khi rời văn phòng.
Cuối cùng khi bóng mấy chiếc trực thăng nhỏ dần, họ có thể lắng nghe xung quanh – Carlos cảm thấy yên tĩnh đến lạ. Không xe cộ, âm thanh, nơi họ đang đứng lại là góc một thành phố lớn. Quái, sao người ta lại không phản ứng gì trừ khi không ai sống ở đó.
Mikhail Victor, chỉ huy trung đội D, đứng yên lặng, cạnh bên là Hirami, Cryan cùng gã người Nga quái gở đó. Lúc đó chỉ huy trung đội A, B, C đều ra chỉ thị cho những tiểu đội di chuyển trong im lặng và mau chóng. Tiếng giày vang lên trong không gian tĩnh mịch…
“Tiểu đội A, cấp hành quân!”, Hirami gọi, giọng anh có vẻ như nghẹt lại. Nếu nhớ đúng thì họ đều đi về phía tây, rồi vào giữa thành phố Raccoon. Sau đó các đội giãn ra phủ vùng rộng nhất. Khoảng một trăm mẫu, tiểu đội A đi một mình, ba mươi người đi nhanh qua khu công nghiệp không khác nơi văn phòng của họ mấy; xuống cấp, đầy rác rưởi, cỏ dại đầy bụi, hàng xếp kho được rào quanh.
Carlos cau mặt, không giữ im lặng được nữa. “Fuchi”, anh nói, nửa như không ra hơi. Mùi như có kẻ đánh rắm trong cái bọc đầy cá.
Randy tụt lại chạy ngang với Carlos: “Người anh em, nói gì thế?”
“Nói về thứ gì đó thối”, Carlos nói nhỏ. “Cậu ngửi thấy không?”
Randy gật: “Có. Cậu đó. ”
“Haha, cậu giết tôi mất, cabraln. ”, Carlos cười ngọt. “Nhân tiện đó có nghĩa là bạn tốt đấy. ”
Randy cười khoái chí: “Ừ, tôi cá thế. Và tôi cá…”
“Ngừng lại! Và im đi, đằng kia kìa!”
Hirami ra lệnh, đưa tay lên ra hiệu giữ yên lặng. Carlos nghe thấy tiếng một đội khác phía xa xa phía bắc một hay hai khu nhà, tiếng chân trên nên gạch. Một giây sau, có gì đó khác nữa. Tiếng kêu la rên rỉ, ở đâu đó phía trước họ, ban đầu yếu ớt nhưng ngày một to hơn. Giống tiếng bệnh nhân bị đá ra ngoài đường. Đồng thời mùi hôi mỗi lúc một nồng nặc, tệ hơn và quen thuộc, như là…
“Khốn thật”, Randy thì thào, mặt anh ta xanh lại, Carlos lập tức biết ngay đó là gì, như Randy phải biết.
“Không thể nào”.
Mùi cơ thể con người thối rữa trong ánh nắng mặt trời. Là chết chóc. Carlos biết, nhưng chưa từng thấy nó rộng lớn thế, bửa vây đến vậy. Âm thanh vô từ, thống khổ từ những con người đang chịu đau đớn mỗi lúc một to. Hirami sắp nói gì đó…
…khi tiếng súng gần đó vang lên, từ một đội khác, giữa âm thanh súng máy xé không gian chiều ấy, Carlos nghe thấy tiếng thét.
“Dàn hàng!”, Hirami gào lên, đưa hai tay lên trời, khó mà nghe được giọng anh giữa âm thành làn đạn.
Hàng thẳng, năm người phía trước, năm người phía sau hướng họ vừa đến. Carlos vào vị trí, miệng chợt khô đắng, tay ướt sũng. Tiếng súng phía bắc vị trí của họ cứ kéo dài, lấn áp bất cứ âm thanh nào, mùi hôi thối càng lúc càng nặng thêm. Tăng thêm nỗi lo sợ của anh là tiếng súng từ những phía khác; dù cái gì đang diến ra đi chăng nữa, có vẻ toàn bộ U. B. C. S. đã giáp trận.
Carlos hướng về phía trước, sẵn sàng khẩu súng, quét mắt qua những con đường trống, ngã 3 phía trước. Lhẩu M16 nạp đầy với ổ đạn ba mươi viên không phải thứ để đùa giỡn nhưng anh vẫn sợ - sợ một cái gì đó, anh vẫn chưa biết.
Sao họ vẫn còn bắn, thứ gì khiến họ tốn nhiều đạn vậy? Nó là cái gì…
Carlos trông thấy kẻ đầu tiên, cấi thân hình lảo đảo sắp ngã phía sau căn nhà cách đó hai dãy trước mặt họ. Tên thứ hai lết ngang qua con đường, theo sau tên thứ ba, thứ tu – thình lình, ít nhất là cá tá người lê lết trên đường tiến về phía họ. Họ như đang say.
“Lạy Chúa, họ bị sao vậy, sao họ đi như thế?”
Olson, anh chàng bên cạnh Carlos lên tiếng. Nhìn lại phía sau, anh thấy ít nhất 10 người không biết từ đâu ra cũng đang lết đến. Tiếng súng phía bắc đang nhỏ dần, ít dần và rời rạc hẳn.
Carlos quay lại phía trước, không thể tin vào cái mình đang thấy và nghe; họ đã tiến tới đủ gần, tiếng rên rỉ là của họ. Quần áo rách bươm, đầy máu, một số trần trụi; gương mặt xanh xao dính máu, đôi mắt trắng dã; cách những cánh đưa lên như muốn tóm lấy hàng lính, vẫn cách đó một dãy phố. Thân hình họ - mất chi, phần lớn da, cơ bị xé rách, những phần cơ thể sưng phồng, ướt nhẹp vì thối rữa.
Carlos đã thấy trên phim. Những người này không bệnh. Họ là những con zombie, những xác chết biết đi, trong một khoảnh khắc, điều duy nhất anh làm được là nhìn chúng lết đến gần hơn. Không thể nào, đầu óc anh cố gắng chấp nhận cái gì anh đang thấy, anh nhớ tới lời Trent về những giờ đen tối phía trước.
“Bắn, bắn!... ”. Giọng Hirami hét như vang vọng từ xa thẳm, tiếp đó loạt âm thanh chói tan từ những vũ khí tự động kéo Carlos về thực tại. Anh ngắm vào bụng một người đàn ông mập mặc quần pjama rách rưới và bắn. Ít nhất chín viên đạn găm vào, xuyên qua cái bụng thối rữa. Máu đỏ thẫm phun ra nhuốm cả phía trước cái quần. Nó lảo đảo nhưng không ngã. Nó thậm chí còn lết đến nhanh hơn nữa, mùi máu chính nó đã kích thích nó.
Vài con trong bọn ngã xuống, nhưng tiếp tục dùng phần thân thể còn sót tiến đến với mục tiêu duy nhất.
“Não, phải bắn vào nào, trong phim bắn vào đầu là cách duy nhất…”
Con gần nhất cách đó khoảng 20 feet, người phụ nữ gầy trông vẫn nguyên vẹn trừ đốm xương trắng dưới mái đầu. Carlos xác định phần sọ rồi bắn, cảm thấy mừng quýnh khi nó ngã xuống và nằm nguyên đó.
“Cái đầu, ngắm vào đầu nó…”, Carlos gào lên nhưng Hirami đang gào thét hoảng loạn, liền sau nhiều người trong hàng cũng như thế. Hàng ngũ bắt đầu phân tán.
- “ôi, không” -
Phía sau, bọn zombie đã đến gần sát.
Nicholai, Wersbowski là hai người duy nhất đội B chạy thoát, chỉ vì chúng lợi dụng những gì chung quanh – Nicholai đảy Brett Mathis vào vòng tay những sinh vật đó khi bọn zombie đã gần kề, sử dụng vài giây quí giá trốn thoát. Hắn thấy Wersbowski bắn chân trái Li vì lí do tương tự, để mặc người lính què làm mồi đánh lạc hướng những sinh vật gần nhất.
Bọn chúng leo lên thang thoát hiểm tòa nhà cách nơi những người khác ngã xuống hai dãy phố. Tiếng súng nhỏ dần theo bước chân của chúng lên những bậc thang rỉ sét, nhưng rồi tiếng thét những người sắp chết bị chìm trong tiếng rên rỉ háo húc của lũ khát máu.
Nicholai cân nhắc kỹ càng quyết định vừa leo lên thang thoát hiểm. Đúng như hắn dự đoán, John Wersbowski là người sống sót, chắc chắn hắn không ngần ngại làm bất cứ việc gì để trở thành người còn sống; sự việc ở Raccoon tệ hơn Nicholai nghĩ – để một kẻ như vậy đi theo hẳn sẽ có cái giá của nó.
Nếu bị bao vây lần nữa, sẽ có người thí mạng để mình chạy…
Leo lên đỉnh tòa nhà, trong lúc Wersbowki nhìn ra những gì chúng có thể thấy từ tòa nhà ba tầng, Nicholai chau mày. Không may, hy sinh một người cũng là con dao hai lưỡi. Hơn nữa, Wersbowski không phải tên ngốc cũng không cả tin như Mathis và Li; dùng hắn làm vật thế mạng rất khó.
“Zombies”, Wersbowki lẩm nhẩm, nắm chặt khẩu súng. Đứng cạnh hắn, Nicholai dõi theo ánh nhìn tới nơi cuối cùng đội B cố thủ, nhìn những thân hình không còn nguyên vẹn vương vãi trên đường mà lũ sinh vật khát máu tiếp tục ăn. Nicholai hơi thất vọng; họ chết chỉ trong vài phút, khó mà gọi là một cuộc chiến…
“Thưa ngài, giờ kế hoạch gì đây?”
Rõ ràng là một lời mỉa măm, trong lời nói, trong cả thái độ nửa ghê tởm, nửa thích thú hắn đối với Nicholai. Tất nhiên Wersbowski đã thấy hắn làm gì với Mathis. Nicholai thở dài, lắc đầu, buông lỏng khẩu M16; hắn thật sự không còn lựa chọn nào khác.
“Tôi không biết”, hắn nói nhỏ, khi Wersbowski vừa nhìn lại nơi họ vừa chiến đấu, Nicholai bóp cò.
Ba viên đạn găm vào bụng đẩy hắn ngã ra rìa nền xi măng. Nicholai lập tức ngắm vũ khí vào con mắt chưa định thần của hắn, viên đạn bắn ra cũng là lúc người lính nhận thức được hắn đã phạm một lỗi lầm chết người khi mất cảnh giác.
Chưa đến một giây, Nicholai đã còn lại một mình trên sân thượng. Hắn nhìn cơ thể vẫn đang rỉ máu, tự hỏi – tuy không phải lần đầu – tại sao hắn giết người mà không thấy chút mặc cảm tội lỗi. Hắn đã nghe đến hội chứng rối loạn nhân cách trước đó và nghĩ có lẽ hắn trong trường hợp này…mặc dù tại sao người ta cứ tiếp tục nhìn hội chứng đó theo hướng gay gắt thì hắn không hiểu. Có lẽ đó là sự thấu cảm, không hiểu sao trong toàn bộ hành vi của nhân loại, việc không có khả năng “cảm thông” lại sai trái
“Nhưng không gì làm mình thấy áy náy cả, mình cũng chưa bao giờ do dự làm những việc phải làm, dù người khác cảm nhận điều đó như thế nào đi nữa; chuyện đó thì có gì kinh khủng chứ?”
Thật vậy, hắn là người biết làm chủ chính bản thân. Rèn luyện trí óc chỉ là trò lừa. Khi hắn quyết định rời bỏ quê hương, trong vòng một năm hắn đã không thèm suy nghĩ bằng tiếng Nga nữa. Rồi lúc trở thành lính đánh thuê, hắn luyện ngày đêm với mọi loại vũ khí, thử thách kỹ năng của hắn với người giỏi nhất trên chiến trường; hắn luôn thắng, vì dù đối thủ có nguy hiểm đến cỡ nào, Nicholai biết vứt bỏ lương tâm là hắn sẽ tự do hành động, cũng như dù có một chút thì với kẻ thủ của hắn cũng là một trở ngại lớn.
“Điều đó hoàn toàn có lợi, phải không?”
Cái xác bất động của Wersbowski không trả lời. Nicholai kiểm tra đồng hồ, đã thấy chán với những suy nghĩ triết lí. Mặt trời sắp lặn, mới 1700 giờ; hắn còn nhiều việc phải làm nếu muốn thoát khỏi Raccoon với mọi thứ hắn cần. Trước hết là tìm một laptop truy cập vào file hắn vừa tạo tối hôm trước, bản đồ và tên; có một tên đợi hắn ở trụ sở RPD, hắn phải cực kỳ thận trọng tại khu vực đó, nơi hai con Tyrant mới sẽ được thả xuống. Một con được lên chương trình tìm mẫu hóa chất, gần đó là phòng thí nghiệm Umbrella. Con còn lại, được trang bị hiện đại hơn có nhiệm vụ tìm bọn S. T. A. R. S., nếu còn tên nào trong Raccoon, văn phòng S. T. A. R. S. lại ở trong RPD. Nếu hắn không ngáng đường thì hắn sẽ an toàn, quả thực hắn ghét dính vào mấy con Tyrant hay mục tiêu của nó dù một nửa những gì hắn nghe được là sự thật. Umbrella hoàn toàn lợi dụng tình trạng Raccoon hiện giờ - sử dụng mẫu Tyrant mới, nếu chúng gọi là vậy – bên cạnh việc thu thập dữ liệu. Hắn khâm phục năng lực của họ. Nicholai nghe thấy tiếng súng, theo phản xạ hắn bước lùi lại, nhìn xuống, liền sau hai người lính chạy qua. Một người bị thương, chân phải rách tới gần mắt cá, dựa hẳn vào người kia. Nicholai không nhận ra người bị thương, nhưng kẻ giúp anh ta là tên Hispanic hồi trên máy bay đã nhìn hắn.
Nicolai mỉm cười nhìn hai người vội vã đi khuất tầm nhìn; một số ít người sẽ sống sót, tất nhiên, nhưng họ sẽ chịu chung số phận như người bị thương kia, chắc chắn đã bị một con zombie cắn.
“Hay số phận đã sắp sẵn cho tên Hispanic. Không biết hắn sẽ làm gì khi bạn hắn bắt đầu nhiễm bệnh? Khi hắn bắt đầu biến đổi?”
Có thể sẽ tìm cách cứu anh chàng kia trong danh dự; đó sẽ là hành động đáng khinh. Thật sự thì bọn họ như đã chết rồi. Ngạc nhiên trước những gì số phận dành cho hai người bọn họ, Nicholai lắc đầu rồi đưa tay lấy túi đạn từ người Wersbowski.
Họ đến thành phố vào xế chiều, Carlos kiểm tra đồng hồ lúc đo 1650, chuẩn bị đáp xuống khu vực bỏ hoang. Hình như gần đây có phòng thí nghiệm Umbrella dưới lòng đất; ít nhất đó là điều họ được thông báo ở buổi họp.
Carlos sắp hàng, đeo khẩu tiểu liên, móc khóa dây dùng để xuống từ máy bay, sẵn sàng đợi Hirami mở cửa. Trước Carlos là Randy Thomas, một trong số người thân thiện trong đội A. Randy quay lại nhìn anh và giả vờ bực mình, chĩa ngón tay trỏ thành cây súng về phía Carlos. Anh cười, ôm lấy bụng như bị trúng đạn thật. Trò đùa ngu ngốc, Carlos thấy mình thoải mái một chút. Chỉ huy họ mở cửa, tiếng động cơ át vào cabin. Lần lượt từng cặp hai người phía trước Carlos tuột dây xuống. Carlos bước gần tới cửa, cố chống chọi với cơn gió quan sát nơi họ đáp xuống. Bóng trực thăng trải dài trong ánh nắng một ngày sắp hết, phía dưới người những trung đội khác đang sắp hàng theo đội. Tới lượt anh; Carlos bước ra ngoài vài giây sau Randy, cảm giác rơi tự do như ép ngược anh. Thoáng bầu trời, Carlos chạm đất, mở khóa dây và nhanh bước tới nơi Hirami đứng.
Vài phút sau, tất cả đều xuống đất. Gần như đồng loạt, bốn chiếc trực thăng hướng về phía tây, âm thanh động cơ nhỏ dần cùng lúc hoàng hôn rọi tia nắng lên đội hình. Carlos cảnh giác, sẵn sàng khi mỗi đội và chỉ huy trung đội chỉ về nhiều hướng khác nhau, nơi họ chỉ định phải đi trước khi rời văn phòng.
Cuối cùng khi bóng mấy chiếc trực thăng nhỏ dần, họ có thể lắng nghe xung quanh – Carlos cảm thấy yên tĩnh đến lạ. Không xe cộ, âm thanh, nơi họ đang đứng lại là góc một thành phố lớn. Quái, sao người ta lại không phản ứng gì trừ khi không ai sống ở đó.
Mikhail Victor, chỉ huy trung đội D, đứng yên lặng, cạnh bên là Hirami, Cryan cùng gã người Nga quái gở đó. Lúc đó chỉ huy trung đội A, B, C đều ra chỉ thị cho những tiểu đội di chuyển trong im lặng và mau chóng. Tiếng giày vang lên trong không gian tĩnh mịch…
“Tiểu đội A, cấp hành quân!”, Hirami gọi, giọng anh có vẻ như nghẹt lại. Nếu nhớ đúng thì họ đều đi về phía tây, rồi vào giữa thành phố Raccoon. Sau đó các đội giãn ra phủ vùng rộng nhất. Khoảng một trăm mẫu, tiểu đội A đi một mình, ba mươi người đi nhanh qua khu công nghiệp không khác nơi văn phòng của họ mấy; xuống cấp, đầy rác rưởi, cỏ dại đầy bụi, hàng xếp kho được rào quanh.
Carlos cau mặt, không giữ im lặng được nữa. “Fuchi”, anh nói, nửa như không ra hơi. Mùi như có kẻ đánh rắm trong cái bọc đầy cá.
Randy tụt lại chạy ngang với Carlos: “Người anh em, nói gì thế?”
“Nói về thứ gì đó thối”, Carlos nói nhỏ. “Cậu ngửi thấy không?”
Randy gật: “Có. Cậu đó. ”
“Haha, cậu giết tôi mất, cabraln. ”, Carlos cười ngọt. “Nhân tiện đó có nghĩa là bạn tốt đấy. ”
Randy cười khoái chí: “Ừ, tôi cá thế. Và tôi cá…”
“Ngừng lại! Và im đi, đằng kia kìa!”
Hirami ra lệnh, đưa tay lên ra hiệu giữ yên lặng. Carlos nghe thấy tiếng một đội khác phía xa xa phía bắc một hay hai khu nhà, tiếng chân trên nên gạch. Một giây sau, có gì đó khác nữa. Tiếng kêu la rên rỉ, ở đâu đó phía trước họ, ban đầu yếu ớt nhưng ngày một to hơn. Giống tiếng bệnh nhân bị đá ra ngoài đường. Đồng thời mùi hôi mỗi lúc một nồng nặc, tệ hơn và quen thuộc, như là…
“Khốn thật”, Randy thì thào, mặt anh ta xanh lại, Carlos lập tức biết ngay đó là gì, như Randy phải biết.
“Không thể nào”.
Mùi cơ thể con người thối rữa trong ánh nắng mặt trời. Là chết chóc. Carlos biết, nhưng chưa từng thấy nó rộng lớn thế, bửa vây đến vậy. Âm thanh vô từ, thống khổ từ những con người đang chịu đau đớn mỗi lúc một to. Hirami sắp nói gì đó…
…khi tiếng súng gần đó vang lên, từ một đội khác, giữa âm thanh súng máy xé không gian chiều ấy, Carlos nghe thấy tiếng thét.
“Dàn hàng!”, Hirami gào lên, đưa hai tay lên trời, khó mà nghe được giọng anh giữa âm thành làn đạn.
Hàng thẳng, năm người phía trước, năm người phía sau hướng họ vừa đến. Carlos vào vị trí, miệng chợt khô đắng, tay ướt sũng. Tiếng súng phía bắc vị trí của họ cứ kéo dài, lấn áp bất cứ âm thanh nào, mùi hôi thối càng lúc càng nặng thêm. Tăng thêm nỗi lo sợ của anh là tiếng súng từ những phía khác; dù cái gì đang diến ra đi chăng nữa, có vẻ toàn bộ U. B. C. S. đã giáp trận.
Carlos hướng về phía trước, sẵn sàng khẩu súng, quét mắt qua những con đường trống, ngã 3 phía trước. Lhẩu M16 nạp đầy với ổ đạn ba mươi viên không phải thứ để đùa giỡn nhưng anh vẫn sợ - sợ một cái gì đó, anh vẫn chưa biết.
Sao họ vẫn còn bắn, thứ gì khiến họ tốn nhiều đạn vậy? Nó là cái gì…
Carlos trông thấy kẻ đầu tiên, cấi thân hình lảo đảo sắp ngã phía sau căn nhà cách đó hai dãy trước mặt họ. Tên thứ hai lết ngang qua con đường, theo sau tên thứ ba, thứ tu – thình lình, ít nhất là cá tá người lê lết trên đường tiến về phía họ. Họ như đang say.
“Lạy Chúa, họ bị sao vậy, sao họ đi như thế?”
Olson, anh chàng bên cạnh Carlos lên tiếng. Nhìn lại phía sau, anh thấy ít nhất 10 người không biết từ đâu ra cũng đang lết đến. Tiếng súng phía bắc đang nhỏ dần, ít dần và rời rạc hẳn.
Carlos quay lại phía trước, không thể tin vào cái mình đang thấy và nghe; họ đã tiến tới đủ gần, tiếng rên rỉ là của họ. Quần áo rách bươm, đầy máu, một số trần trụi; gương mặt xanh xao dính máu, đôi mắt trắng dã; cách những cánh đưa lên như muốn tóm lấy hàng lính, vẫn cách đó một dãy phố. Thân hình họ - mất chi, phần lớn da, cơ bị xé rách, những phần cơ thể sưng phồng, ướt nhẹp vì thối rữa.
Carlos đã thấy trên phim. Những người này không bệnh. Họ là những con zombie, những xác chết biết đi, trong một khoảnh khắc, điều duy nhất anh làm được là nhìn chúng lết đến gần hơn. Không thể nào, đầu óc anh cố gắng chấp nhận cái gì anh đang thấy, anh nhớ tới lời Trent về những giờ đen tối phía trước.
“Bắn, bắn!... ”. Giọng Hirami hét như vang vọng từ xa thẳm, tiếp đó loạt âm thanh chói tan từ những vũ khí tự động kéo Carlos về thực tại. Anh ngắm vào bụng một người đàn ông mập mặc quần pjama rách rưới và bắn. Ít nhất chín viên đạn găm vào, xuyên qua cái bụng thối rữa. Máu đỏ thẫm phun ra nhuốm cả phía trước cái quần. Nó lảo đảo nhưng không ngã. Nó thậm chí còn lết đến nhanh hơn nữa, mùi máu chính nó đã kích thích nó.
Vài con trong bọn ngã xuống, nhưng tiếp tục dùng phần thân thể còn sót tiến đến với mục tiêu duy nhất.
“Não, phải bắn vào nào, trong phim bắn vào đầu là cách duy nhất…”
Con gần nhất cách đó khoảng 20 feet, người phụ nữ gầy trông vẫn nguyên vẹn trừ đốm xương trắng dưới mái đầu. Carlos xác định phần sọ rồi bắn, cảm thấy mừng quýnh khi nó ngã xuống và nằm nguyên đó.
“Cái đầu, ngắm vào đầu nó…”, Carlos gào lên nhưng Hirami đang gào thét hoảng loạn, liền sau nhiều người trong hàng cũng như thế. Hàng ngũ bắt đầu phân tán.
- “ôi, không” -
Phía sau, bọn zombie đã đến gần sát.
Nicholai, Wersbowski là hai người duy nhất đội B chạy thoát, chỉ vì chúng lợi dụng những gì chung quanh – Nicholai đảy Brett Mathis vào vòng tay những sinh vật đó khi bọn zombie đã gần kề, sử dụng vài giây quí giá trốn thoát. Hắn thấy Wersbowski bắn chân trái Li vì lí do tương tự, để mặc người lính què làm mồi đánh lạc hướng những sinh vật gần nhất.
Bọn chúng leo lên thang thoát hiểm tòa nhà cách nơi những người khác ngã xuống hai dãy phố. Tiếng súng nhỏ dần theo bước chân của chúng lên những bậc thang rỉ sét, nhưng rồi tiếng thét những người sắp chết bị chìm trong tiếng rên rỉ háo húc của lũ khát máu.
Nicholai cân nhắc kỹ càng quyết định vừa leo lên thang thoát hiểm. Đúng như hắn dự đoán, John Wersbowski là người sống sót, chắc chắn hắn không ngần ngại làm bất cứ việc gì để trở thành người còn sống; sự việc ở Raccoon tệ hơn Nicholai nghĩ – để một kẻ như vậy đi theo hẳn sẽ có cái giá của nó.
Nếu bị bao vây lần nữa, sẽ có người thí mạng để mình chạy…
Leo lên đỉnh tòa nhà, trong lúc Wersbowki nhìn ra những gì chúng có thể thấy từ tòa nhà ba tầng, Nicholai chau mày. Không may, hy sinh một người cũng là con dao hai lưỡi. Hơn nữa, Wersbowski không phải tên ngốc cũng không cả tin như Mathis và Li; dùng hắn làm vật thế mạng rất khó.
“Zombies”, Wersbowki lẩm nhẩm, nắm chặt khẩu súng. Đứng cạnh hắn, Nicholai dõi theo ánh nhìn tới nơi cuối cùng đội B cố thủ, nhìn những thân hình không còn nguyên vẹn vương vãi trên đường mà lũ sinh vật khát máu tiếp tục ăn. Nicholai hơi thất vọng; họ chết chỉ trong vài phút, khó mà gọi là một cuộc chiến…
“Thưa ngài, giờ kế hoạch gì đây?”
Rõ ràng là một lời mỉa măm, trong lời nói, trong cả thái độ nửa ghê tởm, nửa thích thú hắn đối với Nicholai. Tất nhiên Wersbowski đã thấy hắn làm gì với Mathis. Nicholai thở dài, lắc đầu, buông lỏng khẩu M16; hắn thật sự không còn lựa chọn nào khác.
“Tôi không biết”, hắn nói nhỏ, khi Wersbowski vừa nhìn lại nơi họ vừa chiến đấu, Nicholai bóp cò.
Ba viên đạn găm vào bụng đẩy hắn ngã ra rìa nền xi măng. Nicholai lập tức ngắm vũ khí vào con mắt chưa định thần của hắn, viên đạn bắn ra cũng là lúc người lính nhận thức được hắn đã phạm một lỗi lầm chết người khi mất cảnh giác.
Chưa đến một giây, Nicholai đã còn lại một mình trên sân thượng. Hắn nhìn cơ thể vẫn đang rỉ máu, tự hỏi – tuy không phải lần đầu – tại sao hắn giết người mà không thấy chút mặc cảm tội lỗi. Hắn đã nghe đến hội chứng rối loạn nhân cách trước đó và nghĩ có lẽ hắn trong trường hợp này…mặc dù tại sao người ta cứ tiếp tục nhìn hội chứng đó theo hướng gay gắt thì hắn không hiểu. Có lẽ đó là sự thấu cảm, không hiểu sao trong toàn bộ hành vi của nhân loại, việc không có khả năng “cảm thông” lại sai trái
“Nhưng không gì làm mình thấy áy náy cả, mình cũng chưa bao giờ do dự làm những việc phải làm, dù người khác cảm nhận điều đó như thế nào đi nữa; chuyện đó thì có gì kinh khủng chứ?”
Thật vậy, hắn là người biết làm chủ chính bản thân. Rèn luyện trí óc chỉ là trò lừa. Khi hắn quyết định rời bỏ quê hương, trong vòng một năm hắn đã không thèm suy nghĩ bằng tiếng Nga nữa. Rồi lúc trở thành lính đánh thuê, hắn luyện ngày đêm với mọi loại vũ khí, thử thách kỹ năng của hắn với người giỏi nhất trên chiến trường; hắn luôn thắng, vì dù đối thủ có nguy hiểm đến cỡ nào, Nicholai biết vứt bỏ lương tâm là hắn sẽ tự do hành động, cũng như dù có một chút thì với kẻ thủ của hắn cũng là một trở ngại lớn.
“Điều đó hoàn toàn có lợi, phải không?”
Cái xác bất động của Wersbowski không trả lời. Nicholai kiểm tra đồng hồ, đã thấy chán với những suy nghĩ triết lí. Mặt trời sắp lặn, mới 1700 giờ; hắn còn nhiều việc phải làm nếu muốn thoát khỏi Raccoon với mọi thứ hắn cần. Trước hết là tìm một laptop truy cập vào file hắn vừa tạo tối hôm trước, bản đồ và tên; có một tên đợi hắn ở trụ sở RPD, hắn phải cực kỳ thận trọng tại khu vực đó, nơi hai con Tyrant mới sẽ được thả xuống. Một con được lên chương trình tìm mẫu hóa chất, gần đó là phòng thí nghiệm Umbrella. Con còn lại, được trang bị hiện đại hơn có nhiệm vụ tìm bọn S. T. A. R. S., nếu còn tên nào trong Raccoon, văn phòng S. T. A. R. S. lại ở trong RPD. Nếu hắn không ngáng đường thì hắn sẽ an toàn, quả thực hắn ghét dính vào mấy con Tyrant hay mục tiêu của nó dù một nửa những gì hắn nghe được là sự thật. Umbrella hoàn toàn lợi dụng tình trạng Raccoon hiện giờ - sử dụng mẫu Tyrant mới, nếu chúng gọi là vậy – bên cạnh việc thu thập dữ liệu. Hắn khâm phục năng lực của họ. Nicholai nghe thấy tiếng súng, theo phản xạ hắn bước lùi lại, nhìn xuống, liền sau hai người lính chạy qua. Một người bị thương, chân phải rách tới gần mắt cá, dựa hẳn vào người kia. Nicholai không nhận ra người bị thương, nhưng kẻ giúp anh ta là tên Hispanic hồi trên máy bay đã nhìn hắn.
Nicolai mỉm cười nhìn hai người vội vã đi khuất tầm nhìn; một số ít người sẽ sống sót, tất nhiên, nhưng họ sẽ chịu chung số phận như người bị thương kia, chắc chắn đã bị một con zombie cắn.
“Hay số phận đã sắp sẵn cho tên Hispanic. Không biết hắn sẽ làm gì khi bạn hắn bắt đầu nhiễm bệnh? Khi hắn bắt đầu biến đổi?”
Có thể sẽ tìm cách cứu anh chàng kia trong danh dự; đó sẽ là hành động đáng khinh. Thật sự thì bọn họ như đã chết rồi. Ngạc nhiên trước những gì số phận dành cho hai người bọn họ, Nicholai lắc đầu rồi đưa tay lấy túi đạn từ người Wersbowski.