Đại hôn của Thái tử chính là chuyện đại hỷ của nước Khánh, trong lời đề nghị của một vài đại thần, Khánh đế tới ngày thứ 2 liền hạ chỉ, đại xá thiên hạ, khắp nơi vui mừng.
Dư âm của hôn sự này, đương nhiên không phải ngày một ngày hai là tản đi hết được. Trên các cánh cổng đỏ cờ hồng cũng không phải qua đại hôn liền tháo xuống, ít nhất cũng phải treo khoảng mười ngày.
Đoàn nước Yến sau ngày đại hôn cũng chuẩn bị quay về Yến Kinh.
Chẳng qua là ngày thứ 3 sau đại hôn, thành Thượng Kinh bắt đầu xả một trận mưa lớn, khiến cho hành trình quay về của sứ đoàn hoãn lại 2 ngày, mặt khác cũng là vì chiếu cố thương thế của Hồng Tụ.
Hồng Tụ vì thể chất sức khỏe tốt nên vết thương khôi phục rất nhanh, so với trong tưởng tượng thì phải nhanh không ít, chẳng qua là vết thương gần như trí mạng. Cho nên nhất thời muốn nàng khỏi hẳn, chuyện đó đương nhiên là không thể được. Đường quay về thành Yến Kinh này, không ít đoạn bị xóc nảy. Ở lại thêm 2 ngày. Tuy rằng sẽ không khiến cho vết thương của Hồng Tụ có sự hồi phục quá lớn, nhưng vẫn có thể đủ để hồi phục phần nhiều, có thể chịu đựng tốt con đường xóc nảy thế này.
Xác định được ngày về kinh, Hàn Mạc không còn gì để nói nữa. Công chúa nếu đã gả xong rồi, thì trọng trách của đoàn đã hoàn thành, cũng không có lý do gì tiếp tục lưu lại thành Thượng Kinh.
Nhưng khi Tào Ân đề xuất lộ trình quay về lại khiến Hàn Mạc có chút kinh ngạc.
Theo Hàn Mạc thấy, thì cứ theo đường đã đến mà quay lại thì là sự lựa chọn tốt nhất.
Tuyến đường hướng từ thành Thượng Kinh tới đây, tuy rằng gặp phải một đợt tập kích, nhưng nhìn chung mà nói, con đường này cũng không quá hung hiểm, hơn nữa lại cách xa khu vực chiến sự. Huống chi là đã từng đi qua một lần rồi, tự nhiên là sẽ quen thuộc với nó, cũng sẽ gia tăng được tốc độ hành quân.
Nhưng Xương Đức hầu Tào Ân lại triệu Hàn Mạc và Tống Thế Thanh đến, lúc nhắc tới lộ tuyến quay về kinh lại đề xuất đi theo đường bộ phía tây về thành Yến Kinh.
Từ thành Thượng Kinh đến thành Yến Kinh, có 2 cửa quan có thể thông hành. Một là đường lúc đi đến đây, cũng là con đường giao thương chủ yếu của hai nước Yến – Khánh, cách hai quận Xương Khánh, Võ Bình của nước Khánh, đi qua quận Ngô của nước Yến, qua quận Hội Kê đến thành Yến Kinh.
Một đường khác là đường phía tây, đường xá phải dài gấp đôi, quan trọng nhất, lại phải qua được quận Nam Dương của nước Khánh, còn phải đi qua quận Lâm Dương của nước Yến. Vào lúc này, bất luận là quận Nam Dương hay quận Lâm Dương đều tập trung vô số lực lượng, sát khí dày đặc.
Tào Ân chọn đường đi như vậy, quả thật là nằm ngoài dự liệu của Hàn Mạc.
Tống Thế Thanh lại khuyên:
- Hầu gia, hiện giờ ở cửa Nam Dương bất cứ lúc nào cũng có thể bị công phá. Con đường qua quận Nam Dương thật là không yên ổn. Hầu gia quý thể, sao có thể mạo hiểm?
Hàn Mạc cũng gật đầu nói:
- Tống đại nhân nói rất đúng. Hầu gia, quận Nam Dương binh hoang mã loạn, vài ngày trước, Khánh quốc đã hạ ý chỉ đem bách tính ở quận Nam Dương và Uyển thành ra ngoài, di chuyển đến các quận lân cận. Quận Nam Dương hiện nay nhất định là loạn lạc. Vào lúc này mà từ chỗ đó để về kinh chỉ e là có phần nguy hiểm.
Tào Ân ôn hòa cười nói:
- Bản Hầu cũng biết quận Nam Dương hiện nay rất loạn. Hàng ngàn hàng vạn lê dân di chuyển, cực kỳ loạn lạc... Nhưng Bản hầu ngược lại muốn đi qua quận Nam Dương để xem thử, xem tình hình biên cương ở bên đó như thế nào rồi.
Y nở nụ cười, hạ giọng nói:
- Nếu thật sự bị Ngụy quân công phá cửa Nam Dương, đánh vào trong cửa ải, đến lúc đó quận Nam Dương càng loạn, phòng bị sẽ càng nghiêm ngặt hơn. Chỉ sợ lúc đó Đại Yến chúng ta muốn biết tình hình của quận Nam Dương cũng không phải dễ dàng gì...
Hàn Mạc và Tống Thế Thành liếc nhau, dường như hiểu rõ tâm tư của Tào Ân.
Tào Ân hiển nhiên là muốn ở quận Nam Dương vào lúc trước khi đại chiến chính thức xảy ra, lấy danh nghĩa là đi qua, thực ra là muốn quan sát tình trạng trước mắt của quận Nam Dương, ví dụ như tình hình bày binh bố trận và sắp xếp binh lực của quân Khánh ở cửa Nam Dương.
Không ai dám bảo chứng là chiến sự sẽ xoay chuyển như thế nào, càng không ai biết nước Yến cuối cùng có bị cuốn vào trong trận chiến này hay không.
Lo trước tính sau, trước tiên phải tiến hành tìm hiểu rõ quận Nam Dương một phen, tất nhiên là chuyện có lợi mà vô hại.
Tào Ân khẽ mỉm cười, tiếp tục nói:
- Cửa ải Nam Dương đúng là nguy hiểm một sớm một chiều, bị công phá cũng là chuyện sớm muộn thôi, nhưng mà theo tin tình báo của Bản hầu có được, trong vòng 8 hoặc 10 ngày người Khánh quốc vẫn có thể trụ được. Trấn thủ ở cửa Nam Dương cũng không phải là tướng lĩnh bình thường, đó là một trong ba Thú tướng của Thương Chung Ly Hổ Phích Lịch Lâm Thành Phi. Người này không giỏi chiến đấu ở đồng bằng, nhưng am hiểu nhất chính là cố thủ quan ải. Cửa Nam Dương là cửa ải đầu tiên của nước Khánh, vốn là một đường lên trời. Bao nhiêu năm nay, người nước Khánh tuy rằng không có hành động nào quá lớn trong việc trang bị quân trang, nhưng mà... đối với quan ải này vẫn là đã đụng tới mười phần tâm tư rồi. Có 3 vạn quân thủ ở đó, quan ải vững chắc lạ thường, nghe nói tất cả đá dùng để xây dựng gia cố đều là từ cực Bắc nước Khánh khai thác ra, tường thành của quan ải bình thường không thể nào so sánh được. Người nước Khánh dám xưng cửa Nam Dương là Trung Nguyên đại địa đệ nhất quan, cũng không phải là hư danh.
Hàn Mạc nói:
- Hạ thần có xem qua binh thư, trong binh thư cũng ghi lại lịch sử của cửa Nam Dương. Quan ải này đã có trên trăm năm lịch sử rồi. Thời kỳ trước Tề quốc đã đóng giữ không ít binh tướng. Mười năm trước, người Ngụy và nước Khánh đã từng đánh nhau một trận lớn, lúc đó chính là nhìn thấy ải Nam Dương dễ thủ khó công, cho nên mới không tiến công theo hướng này, mà đột nhiên xuất binh từ Bắc bộ, bất ngờ tập kích mạn Bắc của nước Khánh. Lúc đó Tư Mã Kình Thiên dẫn đầu thủ hạ, với khí thế gió cuốn đại địa của quân thương kỵ. Trong lúc người nước Khánh chưa kịp có phản ứng lại, liên tục phá được Sơn Bắc, Vũ Đô, Vũ Quan ba quận. Năm đó quân Khánh tổn thất nghiêm trọng. Thống soái quân đoàn Tây Bắc của quân Khánh là Tần Khiếu Phong cũng bị vây ở thành Lam Điền của Vũ Quan. Sau đó quân Ngụy phá thành, Tần Khiếu Phong tự sát chết, toàn bộ nước Khánh cũng lâm vào cảnh diệt quốc.
Trong mắt Tào Ân hiện ra vẻ tán thưởng, cười nói:
- Đọc binh thư, dù sao cũng có chút tác dụng.
Tống Thế Thanh ở bên, cười nói:
- Tình thế nước Khánh năm đó so với hôm nay còn nguy cấp hơn. Lúc đó hạ thần vẫn còn đi học ở trường, nhưng cũng biết. Năm đó nước Khánh sợ nước Yến chúng ta cùng với nước Ngụy tiền hậu giáp kích, cho nên đưa công chúa Tuyên Khánh gả tới Đại Yến chúng ta. Khi đó, Sùng Nhân đế này dường như đang là Thái tử.
Tào Ân nâng chung trà lên, nhấp một ngụm, buông chén, mới nói:
- Khi đó Thương Chung Ly đã là đệ nhất mãnh tướng của nước Khánh, chẳng qua chưa phải là Thập phương danh tướng, cũng không phải một tay nắm cả quân quyền. Khi đó, Thương Chung Ly chính là thống soái biên quân của nước Khánh, thống lĩnh tướng sĩ biên quân phía Nam. Tần Khiếu Phong tự sát, quân Ngụy dũng mãnh, nước Khánh đã nhìn thấy trước mắt họa diệt vong. Cũng may khi đó, Thương Chung Ly từ biên quan triệu tập ba vạn binh mã hỏa tốc tới tiền tuyến, đảm nhiệm vai trò Tổng đại tướng.
Nói tới đây, Tào Ân thở dài:
- Đến giờ nghĩ lại, Thương Chung Ly thắng lợi, chẳng những là may mắn của nước Khánh mà cũng là may mắn cho nước Yến ta. Khi đó Đại Yến trên dưới đều không đồng ý xuất binh, thấy nước Ngụy đánh Khánh mà không có biện pháp gì ứng phó. Nếu lúc ấy không có Thương Chung Ly, nếu quân Ngụy thật sự thắng quân Khánh, thì đến lượt Đại Yến ta gặp đại họa.
Hàn Mạc không nói gì, nhưng trong lòng cũng hiểu được. Thời điểm đó, Hoàng đế nước Yến đang dùng thủ đoạn cứng rắn để làm suy yếu thế gia. Lúc ấy Hoàng tộc và thế gia quan hệ rất căng thẳng. Nội bộ bất ổn, căn bản không có tinh lực điều binh lên phương Bắc, liên hợp nước Khánh tấn công nước Ngụy.
- Thương Chung Ly không hổ danh là đệ nhất đại tướng.
Tào Ân tiếp tục nói:
- Lão thắng liên tiếp mấy trận, khôi phục chí khí của binh sĩ, tập hợp tàn quân, phản kích quân Ngụy. Chưa đến nửa năm, dưới sự chỉ huy của lão, quân Khánh đã làm nên một kỳ tích, dành lại hai quận Vũ Đô và Vũ Quan, đuổi quân Ngụy đến tận bờ Tây sông Ô Mộc. Cũng nhờ trận chiến này, lão đã khẳng định vị trí Danh tướng của mình.
- Hình như quân Khánh tuy dành lại hai quân Vũ Đô và Vũ Quan nhưng lại không vượt qua sông Ô Mộc, dành nốt quận Sơn Bắc của họ.
Hàn Mạc nhìn Tào Ân nói.
Tào Ân cười:
- Tư Mã Kình Thiên tuy rằng tuổi không lớn hơn Thương Chung Ly nhưng thành danh trước cả lão. Tuy rằng bị Thương Chung Ly đánh tan tác nhưng hắn vẫn còn chút năng lực, cùng bại quân cố thủ sông Ô Mộc, quyết không để Thương Chung Ly thực hiện được ý đồ dành lại quận Sơn Bắc. Nghe nói trận chiến ở sông Ô Mộc, cả hai bên đều tổn thương nghiêm trọng, tinh nhuệ gần như cạn kiệt. Máu nhuộm đỏ cả dòng sông Ô Mộc. Điều đó cho thấy, năm đó đánh quân Ngụy, tình hình chiến sự ác liệt vô cùng. Quân Ngụy từ trận chiến ấy, nhuệ khí cạn kiệt, mà quân khánh thù thực lực cũng suy yếu thê thảm. Từ đó về sau, quốc nội còn liên miên có phản loạn, Thương Chung Ly quanh năm suốt tháng dẫn quân đi dẹp loạn, cũng không còn sức đi thu hồi quận Sơn Bắc. Nước Khánh từ 12 quận trở thành 11 quận. Người nước Ngụy chiếm được quận Sơn Bắc, từ 5 quận phát triển thành 6 quận. Trận chiến sông Ô Mộc, hai nước 16 năm qua, cũng không phát sinh đại chiến.
Tống Thế Thanh nghe Tào Ân nói xong, thở dài:
- Người nước Ngụy nếm mật nằm gai 16 năm qua, không lúc nào quên việc báo thù. Bọn họ ở chân núi Đại Tuyết dự trữ chăn nuôi rất nhiều chiến mã, khai thác mỏ, sản xuất binh khí trang bị quân binh… Lúc này đây quật khởi, thanh thế so với năm đó mạnh hơn gấp bội. Mà nước Khánh thực lực so với năm đó suy giảm rất nhiều. Trận chiến này…
Nói tới đó, dừng lời, không nói tiếp nữa.
Hàn Mạc trầm ngâm một lát mới hỏi:
- Hầu gia, quân Ngụy nếu biết quận Nam Dương chắc chắn, vì sao không từ sông Ô Mộc tiến quân vào, lại phải đánh quận Nam Dương?
- Người Ngụy không giỏi về thủy chiến. Bọn họ lấy kỵ binh làm chủ, dĩ nhiên ưu thế nhất là đánh bất ngờ trên đồng bằng.
Tào Ân hiển nhiên hiểu rõ về tình hình hai nước.
- Sông Ô Mộc rất rộng, nước sông dâng cao. Trải qua trận chiến lần trước, nước Khánh ở sông Ô Mộc phòng bị cực kỳ chặt chẽ. Người Khánh ở trên sông Ô Mộc tuy chỉ là một đạo thủy quân nhỏ nhưng so với kỹ năng bơi lội của người nước Ngụy mà nói thì vẫn đủ khiến cho người nước Ngụy khiếp sợ.
Tào Ân nói đến đây, lại nhấp một ngụm trà, rồi mới tiếp:
- Hơn nữa trấn thủ bờ sông Ô Mộc là một trong ba Thú tướng Lang Toàn Phong Viên Mộ. Ngoài 3 vạn tinh binh, bờ sông Ô Mộc lại còn có công sự phòng ngự chắc chắn. Người nước Ngụy căn bản không có cách gì tấn công. Người Ngụy bên kia sông Ô Mộc cũng chú trọng bố trí quân binh nhưng cơ bản là để kiềm chế quân đoàn Tây Bắc của Viên Mộ mà thôi.
- Quân đoàn Đông Bắc? Quân đoàn Tây Bắc?
Hàn Mạc có chút ngạc nhiên, hắn từ trước đến nay đối với tình hình chiến sự cũng biết không nhiều lắm. Đối với cơ cấu quân binh nước Khánh càng hạn chế.
Tào Ân thấy Hàn Mạc nghi hoặc, cười nói:
- Cho đến nay, quân lực nước Khánh chính là được cấu thành từ 3 quân đoàn. Bốn quận Đông Bắc gồm có Cao Dương, Dương Bình, Trung Sơn, Hà Tây. Ngoài các quận thành còn có 34 thị trấn, đại khái có khoảng 4-5 vạn binh mã, do Ưng Vô Tình Vương Duyên Bình thống soái. Tây Bắc là các quận gồm có 3 quận: Tắc Thị, An Ấp, Vũ Đô. Quân đoàn Tây Bắc ngoại trừ trấn thủ các quận, trách nhiệm chính yếu là phòng vệ sông Ô Mộc, ngoài hai ngàn thủy quân, còn có 5 vạn quân Tây Bắc, do Lang Toàn Phong Viên Mộ thống soái, như đã nói.
- Ba quân đoàn, ngoài Đông và Bắc, thì còn có biên quân là thứ ba.
Hàn Mạc có vẻ hiểu ra.
Tào Ân nói:
- Đúng. Biên quân Đại Yến ta đóng ở Tây Bắc có hơn 100 ngàn người, đóng tại biên cảnh Đại Yến. Người Khánh cũng rất kiêng nể. Nhiều năm trước, biên quân nước Khánh nhiều gấp mấy lần nước Yến ta. Biên quân phía Nam của nước Khánh lên đến gần 300 ngàn quân, gây áp lực rất lớn cho Đại Yến. Khi đó, thường xuyên bị người nước Khánh khiêu khích. Người Khánh thậm chí đã đánh vào phía biên giới nước ta. May mắn Đại Yến có quân thần Tiêu Hoài Ngọc, thiếu niên anh hùng, mỗi lần ra trận, đều đuổi quân Khánh khỏi biên giới. Người Khánh không thể xâm chiếm dù chỉ là một tấc đất đai nước Yến.
Nói đến đây, Tào Ân không dấu vẻ cảm phục trên nét mặt, cả Tống Thế Thanh cũng lộ ra sự kính nể.
Như một cái tên thần kỳ, Hàn Mạc đã nghe vô số lần, mỗi lần nói lên, dù người nói là ai, đều thể hiện sự tôn kính tột cùng. Khiến Hàn Mạc cho dù chưa từng gặp qua, lòng cũng như bị lây sự tôn kính đó.
- Tuy nhiên, quân đội muốn chống đỡ được, cần có thực lực hùng mạnh của cả đất nước.
Tào Ân chậm rãi nói:
- Nước Khánh sau đại chiến 16 năm trước, thực lực hao tổn rất nặng. Rồi nội loạn liên miên. Thương Chung Ly phải dốc sức trong vài năm mới ổn định được. Vài năm gần đây, nước Khánh quả thật đã không chống đỡ nổi gánh nặng của đại quân 500 ngàn người. Quân đoàn Đông Bắc đã cắt giảm một nửa. Quân đoàn Tây Bắc cũng chỉ lưu 5 vạn quân. Về phần biên quân. Từ 30 vạn quân đến giờ cũng chỉ còn lại hơn 10 vạn. So với lực lượng Đại Yến trở nên ngang nhau.
Tống Thế Thanh tiếp lời:
- Nước Khánh đất rộng của nhiều, nếu muốn phục hưng cũng không phải việc khó. Chẳng qua là hôn quân đắm chìm trong tửu sắc, tham nhũng khắp nơi, bên ngoài nhìn như hùng mạnh, kỳ thật quốc khố không còn dư dả. Đại Yến ta tuy chỉ bằng một nửa diện tích, sản vật cũng không phong phú bằng họ, nhưng bạc để nuôi quân cũng không kém họ. Nếu là bọn họ chăm lo việc nước, trăm ngàn đại quân chưa chắc đã không nuôi nổi.
Tào Ân nghiêm nghị nói:
- Tống đại nhân nói không sai. Người Khánh sống xa hoa lãng phí, làm hao tổn quốc khố cũng là một nguyên nhân trọng yếu. Nếu lúc trước không phải Thương Chung Ly kiên trì, chỉ sợ binh lực nước Khánh cũng chẳng còn được bao nhiêu. Quân Ngụy lúc này đây tấn công nước Khánh, có thể nói, trong tay Thương Chung Ly đúng là không có nhiều binh lực…
Tống Thế Thanh có chút tò mò:
- Hầu gia, người Khánh tuy rằng binh lực có giảm, nhưng vẫn có 3 đại quân đoàn hơn 20 vạn người. So với quân Ngụy dường như còn nhiều hơn a, như thế nào là không có quân để dùng.
Dư âm của hôn sự này, đương nhiên không phải ngày một ngày hai là tản đi hết được. Trên các cánh cổng đỏ cờ hồng cũng không phải qua đại hôn liền tháo xuống, ít nhất cũng phải treo khoảng mười ngày.
Đoàn nước Yến sau ngày đại hôn cũng chuẩn bị quay về Yến Kinh.
Chẳng qua là ngày thứ 3 sau đại hôn, thành Thượng Kinh bắt đầu xả một trận mưa lớn, khiến cho hành trình quay về của sứ đoàn hoãn lại 2 ngày, mặt khác cũng là vì chiếu cố thương thế của Hồng Tụ.
Hồng Tụ vì thể chất sức khỏe tốt nên vết thương khôi phục rất nhanh, so với trong tưởng tượng thì phải nhanh không ít, chẳng qua là vết thương gần như trí mạng. Cho nên nhất thời muốn nàng khỏi hẳn, chuyện đó đương nhiên là không thể được. Đường quay về thành Yến Kinh này, không ít đoạn bị xóc nảy. Ở lại thêm 2 ngày. Tuy rằng sẽ không khiến cho vết thương của Hồng Tụ có sự hồi phục quá lớn, nhưng vẫn có thể đủ để hồi phục phần nhiều, có thể chịu đựng tốt con đường xóc nảy thế này.
Xác định được ngày về kinh, Hàn Mạc không còn gì để nói nữa. Công chúa nếu đã gả xong rồi, thì trọng trách của đoàn đã hoàn thành, cũng không có lý do gì tiếp tục lưu lại thành Thượng Kinh.
Nhưng khi Tào Ân đề xuất lộ trình quay về lại khiến Hàn Mạc có chút kinh ngạc.
Theo Hàn Mạc thấy, thì cứ theo đường đã đến mà quay lại thì là sự lựa chọn tốt nhất.
Tuyến đường hướng từ thành Thượng Kinh tới đây, tuy rằng gặp phải một đợt tập kích, nhưng nhìn chung mà nói, con đường này cũng không quá hung hiểm, hơn nữa lại cách xa khu vực chiến sự. Huống chi là đã từng đi qua một lần rồi, tự nhiên là sẽ quen thuộc với nó, cũng sẽ gia tăng được tốc độ hành quân.
Nhưng Xương Đức hầu Tào Ân lại triệu Hàn Mạc và Tống Thế Thanh đến, lúc nhắc tới lộ tuyến quay về kinh lại đề xuất đi theo đường bộ phía tây về thành Yến Kinh.
Từ thành Thượng Kinh đến thành Yến Kinh, có 2 cửa quan có thể thông hành. Một là đường lúc đi đến đây, cũng là con đường giao thương chủ yếu của hai nước Yến – Khánh, cách hai quận Xương Khánh, Võ Bình của nước Khánh, đi qua quận Ngô của nước Yến, qua quận Hội Kê đến thành Yến Kinh.
Một đường khác là đường phía tây, đường xá phải dài gấp đôi, quan trọng nhất, lại phải qua được quận Nam Dương của nước Khánh, còn phải đi qua quận Lâm Dương của nước Yến. Vào lúc này, bất luận là quận Nam Dương hay quận Lâm Dương đều tập trung vô số lực lượng, sát khí dày đặc.
Tào Ân chọn đường đi như vậy, quả thật là nằm ngoài dự liệu của Hàn Mạc.
Tống Thế Thanh lại khuyên:
- Hầu gia, hiện giờ ở cửa Nam Dương bất cứ lúc nào cũng có thể bị công phá. Con đường qua quận Nam Dương thật là không yên ổn. Hầu gia quý thể, sao có thể mạo hiểm?
Hàn Mạc cũng gật đầu nói:
- Tống đại nhân nói rất đúng. Hầu gia, quận Nam Dương binh hoang mã loạn, vài ngày trước, Khánh quốc đã hạ ý chỉ đem bách tính ở quận Nam Dương và Uyển thành ra ngoài, di chuyển đến các quận lân cận. Quận Nam Dương hiện nay nhất định là loạn lạc. Vào lúc này mà từ chỗ đó để về kinh chỉ e là có phần nguy hiểm.
Tào Ân ôn hòa cười nói:
- Bản Hầu cũng biết quận Nam Dương hiện nay rất loạn. Hàng ngàn hàng vạn lê dân di chuyển, cực kỳ loạn lạc... Nhưng Bản hầu ngược lại muốn đi qua quận Nam Dương để xem thử, xem tình hình biên cương ở bên đó như thế nào rồi.
Y nở nụ cười, hạ giọng nói:
- Nếu thật sự bị Ngụy quân công phá cửa Nam Dương, đánh vào trong cửa ải, đến lúc đó quận Nam Dương càng loạn, phòng bị sẽ càng nghiêm ngặt hơn. Chỉ sợ lúc đó Đại Yến chúng ta muốn biết tình hình của quận Nam Dương cũng không phải dễ dàng gì...
Hàn Mạc và Tống Thế Thành liếc nhau, dường như hiểu rõ tâm tư của Tào Ân.
Tào Ân hiển nhiên là muốn ở quận Nam Dương vào lúc trước khi đại chiến chính thức xảy ra, lấy danh nghĩa là đi qua, thực ra là muốn quan sát tình trạng trước mắt của quận Nam Dương, ví dụ như tình hình bày binh bố trận và sắp xếp binh lực của quân Khánh ở cửa Nam Dương.
Không ai dám bảo chứng là chiến sự sẽ xoay chuyển như thế nào, càng không ai biết nước Yến cuối cùng có bị cuốn vào trong trận chiến này hay không.
Lo trước tính sau, trước tiên phải tiến hành tìm hiểu rõ quận Nam Dương một phen, tất nhiên là chuyện có lợi mà vô hại.
Tào Ân khẽ mỉm cười, tiếp tục nói:
- Cửa ải Nam Dương đúng là nguy hiểm một sớm một chiều, bị công phá cũng là chuyện sớm muộn thôi, nhưng mà theo tin tình báo của Bản hầu có được, trong vòng 8 hoặc 10 ngày người Khánh quốc vẫn có thể trụ được. Trấn thủ ở cửa Nam Dương cũng không phải là tướng lĩnh bình thường, đó là một trong ba Thú tướng của Thương Chung Ly Hổ Phích Lịch Lâm Thành Phi. Người này không giỏi chiến đấu ở đồng bằng, nhưng am hiểu nhất chính là cố thủ quan ải. Cửa Nam Dương là cửa ải đầu tiên của nước Khánh, vốn là một đường lên trời. Bao nhiêu năm nay, người nước Khánh tuy rằng không có hành động nào quá lớn trong việc trang bị quân trang, nhưng mà... đối với quan ải này vẫn là đã đụng tới mười phần tâm tư rồi. Có 3 vạn quân thủ ở đó, quan ải vững chắc lạ thường, nghe nói tất cả đá dùng để xây dựng gia cố đều là từ cực Bắc nước Khánh khai thác ra, tường thành của quan ải bình thường không thể nào so sánh được. Người nước Khánh dám xưng cửa Nam Dương là Trung Nguyên đại địa đệ nhất quan, cũng không phải là hư danh.
Hàn Mạc nói:
- Hạ thần có xem qua binh thư, trong binh thư cũng ghi lại lịch sử của cửa Nam Dương. Quan ải này đã có trên trăm năm lịch sử rồi. Thời kỳ trước Tề quốc đã đóng giữ không ít binh tướng. Mười năm trước, người Ngụy và nước Khánh đã từng đánh nhau một trận lớn, lúc đó chính là nhìn thấy ải Nam Dương dễ thủ khó công, cho nên mới không tiến công theo hướng này, mà đột nhiên xuất binh từ Bắc bộ, bất ngờ tập kích mạn Bắc của nước Khánh. Lúc đó Tư Mã Kình Thiên dẫn đầu thủ hạ, với khí thế gió cuốn đại địa của quân thương kỵ. Trong lúc người nước Khánh chưa kịp có phản ứng lại, liên tục phá được Sơn Bắc, Vũ Đô, Vũ Quan ba quận. Năm đó quân Khánh tổn thất nghiêm trọng. Thống soái quân đoàn Tây Bắc của quân Khánh là Tần Khiếu Phong cũng bị vây ở thành Lam Điền của Vũ Quan. Sau đó quân Ngụy phá thành, Tần Khiếu Phong tự sát chết, toàn bộ nước Khánh cũng lâm vào cảnh diệt quốc.
Trong mắt Tào Ân hiện ra vẻ tán thưởng, cười nói:
- Đọc binh thư, dù sao cũng có chút tác dụng.
Tống Thế Thanh ở bên, cười nói:
- Tình thế nước Khánh năm đó so với hôm nay còn nguy cấp hơn. Lúc đó hạ thần vẫn còn đi học ở trường, nhưng cũng biết. Năm đó nước Khánh sợ nước Yến chúng ta cùng với nước Ngụy tiền hậu giáp kích, cho nên đưa công chúa Tuyên Khánh gả tới Đại Yến chúng ta. Khi đó, Sùng Nhân đế này dường như đang là Thái tử.
Tào Ân nâng chung trà lên, nhấp một ngụm, buông chén, mới nói:
- Khi đó Thương Chung Ly đã là đệ nhất mãnh tướng của nước Khánh, chẳng qua chưa phải là Thập phương danh tướng, cũng không phải một tay nắm cả quân quyền. Khi đó, Thương Chung Ly chính là thống soái biên quân của nước Khánh, thống lĩnh tướng sĩ biên quân phía Nam. Tần Khiếu Phong tự sát, quân Ngụy dũng mãnh, nước Khánh đã nhìn thấy trước mắt họa diệt vong. Cũng may khi đó, Thương Chung Ly từ biên quan triệu tập ba vạn binh mã hỏa tốc tới tiền tuyến, đảm nhiệm vai trò Tổng đại tướng.
Nói tới đây, Tào Ân thở dài:
- Đến giờ nghĩ lại, Thương Chung Ly thắng lợi, chẳng những là may mắn của nước Khánh mà cũng là may mắn cho nước Yến ta. Khi đó Đại Yến trên dưới đều không đồng ý xuất binh, thấy nước Ngụy đánh Khánh mà không có biện pháp gì ứng phó. Nếu lúc ấy không có Thương Chung Ly, nếu quân Ngụy thật sự thắng quân Khánh, thì đến lượt Đại Yến ta gặp đại họa.
Hàn Mạc không nói gì, nhưng trong lòng cũng hiểu được. Thời điểm đó, Hoàng đế nước Yến đang dùng thủ đoạn cứng rắn để làm suy yếu thế gia. Lúc ấy Hoàng tộc và thế gia quan hệ rất căng thẳng. Nội bộ bất ổn, căn bản không có tinh lực điều binh lên phương Bắc, liên hợp nước Khánh tấn công nước Ngụy.
- Thương Chung Ly không hổ danh là đệ nhất đại tướng.
Tào Ân tiếp tục nói:
- Lão thắng liên tiếp mấy trận, khôi phục chí khí của binh sĩ, tập hợp tàn quân, phản kích quân Ngụy. Chưa đến nửa năm, dưới sự chỉ huy của lão, quân Khánh đã làm nên một kỳ tích, dành lại hai quận Vũ Đô và Vũ Quan, đuổi quân Ngụy đến tận bờ Tây sông Ô Mộc. Cũng nhờ trận chiến này, lão đã khẳng định vị trí Danh tướng của mình.
- Hình như quân Khánh tuy dành lại hai quân Vũ Đô và Vũ Quan nhưng lại không vượt qua sông Ô Mộc, dành nốt quận Sơn Bắc của họ.
Hàn Mạc nhìn Tào Ân nói.
Tào Ân cười:
- Tư Mã Kình Thiên tuy rằng tuổi không lớn hơn Thương Chung Ly nhưng thành danh trước cả lão. Tuy rằng bị Thương Chung Ly đánh tan tác nhưng hắn vẫn còn chút năng lực, cùng bại quân cố thủ sông Ô Mộc, quyết không để Thương Chung Ly thực hiện được ý đồ dành lại quận Sơn Bắc. Nghe nói trận chiến ở sông Ô Mộc, cả hai bên đều tổn thương nghiêm trọng, tinh nhuệ gần như cạn kiệt. Máu nhuộm đỏ cả dòng sông Ô Mộc. Điều đó cho thấy, năm đó đánh quân Ngụy, tình hình chiến sự ác liệt vô cùng. Quân Ngụy từ trận chiến ấy, nhuệ khí cạn kiệt, mà quân khánh thù thực lực cũng suy yếu thê thảm. Từ đó về sau, quốc nội còn liên miên có phản loạn, Thương Chung Ly quanh năm suốt tháng dẫn quân đi dẹp loạn, cũng không còn sức đi thu hồi quận Sơn Bắc. Nước Khánh từ 12 quận trở thành 11 quận. Người nước Ngụy chiếm được quận Sơn Bắc, từ 5 quận phát triển thành 6 quận. Trận chiến sông Ô Mộc, hai nước 16 năm qua, cũng không phát sinh đại chiến.
Tống Thế Thanh nghe Tào Ân nói xong, thở dài:
- Người nước Ngụy nếm mật nằm gai 16 năm qua, không lúc nào quên việc báo thù. Bọn họ ở chân núi Đại Tuyết dự trữ chăn nuôi rất nhiều chiến mã, khai thác mỏ, sản xuất binh khí trang bị quân binh… Lúc này đây quật khởi, thanh thế so với năm đó mạnh hơn gấp bội. Mà nước Khánh thực lực so với năm đó suy giảm rất nhiều. Trận chiến này…
Nói tới đó, dừng lời, không nói tiếp nữa.
Hàn Mạc trầm ngâm một lát mới hỏi:
- Hầu gia, quân Ngụy nếu biết quận Nam Dương chắc chắn, vì sao không từ sông Ô Mộc tiến quân vào, lại phải đánh quận Nam Dương?
- Người Ngụy không giỏi về thủy chiến. Bọn họ lấy kỵ binh làm chủ, dĩ nhiên ưu thế nhất là đánh bất ngờ trên đồng bằng.
Tào Ân hiển nhiên hiểu rõ về tình hình hai nước.
- Sông Ô Mộc rất rộng, nước sông dâng cao. Trải qua trận chiến lần trước, nước Khánh ở sông Ô Mộc phòng bị cực kỳ chặt chẽ. Người Khánh ở trên sông Ô Mộc tuy chỉ là một đạo thủy quân nhỏ nhưng so với kỹ năng bơi lội của người nước Ngụy mà nói thì vẫn đủ khiến cho người nước Ngụy khiếp sợ.
Tào Ân nói đến đây, lại nhấp một ngụm trà, rồi mới tiếp:
- Hơn nữa trấn thủ bờ sông Ô Mộc là một trong ba Thú tướng Lang Toàn Phong Viên Mộ. Ngoài 3 vạn tinh binh, bờ sông Ô Mộc lại còn có công sự phòng ngự chắc chắn. Người nước Ngụy căn bản không có cách gì tấn công. Người Ngụy bên kia sông Ô Mộc cũng chú trọng bố trí quân binh nhưng cơ bản là để kiềm chế quân đoàn Tây Bắc của Viên Mộ mà thôi.
- Quân đoàn Đông Bắc? Quân đoàn Tây Bắc?
Hàn Mạc có chút ngạc nhiên, hắn từ trước đến nay đối với tình hình chiến sự cũng biết không nhiều lắm. Đối với cơ cấu quân binh nước Khánh càng hạn chế.
Tào Ân thấy Hàn Mạc nghi hoặc, cười nói:
- Cho đến nay, quân lực nước Khánh chính là được cấu thành từ 3 quân đoàn. Bốn quận Đông Bắc gồm có Cao Dương, Dương Bình, Trung Sơn, Hà Tây. Ngoài các quận thành còn có 34 thị trấn, đại khái có khoảng 4-5 vạn binh mã, do Ưng Vô Tình Vương Duyên Bình thống soái. Tây Bắc là các quận gồm có 3 quận: Tắc Thị, An Ấp, Vũ Đô. Quân đoàn Tây Bắc ngoại trừ trấn thủ các quận, trách nhiệm chính yếu là phòng vệ sông Ô Mộc, ngoài hai ngàn thủy quân, còn có 5 vạn quân Tây Bắc, do Lang Toàn Phong Viên Mộ thống soái, như đã nói.
- Ba quân đoàn, ngoài Đông và Bắc, thì còn có biên quân là thứ ba.
Hàn Mạc có vẻ hiểu ra.
Tào Ân nói:
- Đúng. Biên quân Đại Yến ta đóng ở Tây Bắc có hơn 100 ngàn người, đóng tại biên cảnh Đại Yến. Người Khánh cũng rất kiêng nể. Nhiều năm trước, biên quân nước Khánh nhiều gấp mấy lần nước Yến ta. Biên quân phía Nam của nước Khánh lên đến gần 300 ngàn quân, gây áp lực rất lớn cho Đại Yến. Khi đó, thường xuyên bị người nước Khánh khiêu khích. Người Khánh thậm chí đã đánh vào phía biên giới nước ta. May mắn Đại Yến có quân thần Tiêu Hoài Ngọc, thiếu niên anh hùng, mỗi lần ra trận, đều đuổi quân Khánh khỏi biên giới. Người Khánh không thể xâm chiếm dù chỉ là một tấc đất đai nước Yến.
Nói đến đây, Tào Ân không dấu vẻ cảm phục trên nét mặt, cả Tống Thế Thanh cũng lộ ra sự kính nể.
Như một cái tên thần kỳ, Hàn Mạc đã nghe vô số lần, mỗi lần nói lên, dù người nói là ai, đều thể hiện sự tôn kính tột cùng. Khiến Hàn Mạc cho dù chưa từng gặp qua, lòng cũng như bị lây sự tôn kính đó.
- Tuy nhiên, quân đội muốn chống đỡ được, cần có thực lực hùng mạnh của cả đất nước.
Tào Ân chậm rãi nói:
- Nước Khánh sau đại chiến 16 năm trước, thực lực hao tổn rất nặng. Rồi nội loạn liên miên. Thương Chung Ly phải dốc sức trong vài năm mới ổn định được. Vài năm gần đây, nước Khánh quả thật đã không chống đỡ nổi gánh nặng của đại quân 500 ngàn người. Quân đoàn Đông Bắc đã cắt giảm một nửa. Quân đoàn Tây Bắc cũng chỉ lưu 5 vạn quân. Về phần biên quân. Từ 30 vạn quân đến giờ cũng chỉ còn lại hơn 10 vạn. So với lực lượng Đại Yến trở nên ngang nhau.
Tống Thế Thanh tiếp lời:
- Nước Khánh đất rộng của nhiều, nếu muốn phục hưng cũng không phải việc khó. Chẳng qua là hôn quân đắm chìm trong tửu sắc, tham nhũng khắp nơi, bên ngoài nhìn như hùng mạnh, kỳ thật quốc khố không còn dư dả. Đại Yến ta tuy chỉ bằng một nửa diện tích, sản vật cũng không phong phú bằng họ, nhưng bạc để nuôi quân cũng không kém họ. Nếu là bọn họ chăm lo việc nước, trăm ngàn đại quân chưa chắc đã không nuôi nổi.
Tào Ân nghiêm nghị nói:
- Tống đại nhân nói không sai. Người Khánh sống xa hoa lãng phí, làm hao tổn quốc khố cũng là một nguyên nhân trọng yếu. Nếu lúc trước không phải Thương Chung Ly kiên trì, chỉ sợ binh lực nước Khánh cũng chẳng còn được bao nhiêu. Quân Ngụy lúc này đây tấn công nước Khánh, có thể nói, trong tay Thương Chung Ly đúng là không có nhiều binh lực…
Tống Thế Thanh có chút tò mò:
- Hầu gia, người Khánh tuy rằng binh lực có giảm, nhưng vẫn có 3 đại quân đoàn hơn 20 vạn người. So với quân Ngụy dường như còn nhiều hơn a, như thế nào là không có quân để dùng.