Tào Ân nhẹ giọng nói:
- Quân đoàn Tây Bắc của nước Khánh không dễ gì điều đến tác chiến ở quận Nam Dương, dù gì thì bên kia sông Ô Mộc còn có hơn hai vạn quân Ngụy. Hai vạn quân này tuy đang nhờ cậy quân đoàn Tây Bắc, nhưng … nếu quân đoàn Tây Bắc điều binh về tuyến Nam Dương, trước tình hình không còn binh lực, chưa chắc quân Ngụy không dám tấn công. Quân Ngụy không dám từ sông Ô Mộc tiến quân, là bởi vì binh lực quân Khánh ở sông Ô Mộc được chuẩn bị hoàn thiện, có đầy đủ khả năng để giữ trụ sông Ô Mộc, một khi binh lực bị điều đi thì việc bố trí binh lực sẽ khiếm khuyết, quân Ngụy nhất định sẽ tìm được yếu điểm …
- Còn binh đoàn Đông Bắc?
Hàn Mạc hỏi:
- Quân ở Đông Bắc cũng có bốn năm vạn quân, nhân số không ít a.
Tào Ân đưa tay vuốt chiếc mũi cao ráo của mình, mỉm cười nói:
- Chớ có nghĩ là nước Khánh rất thái bình.
Y hơi nghiêng người về trước nhẹ giọng nói:
- Đất phong của dòng tộc Khánh hậu, đại bộ phận đều tập trung ở khu vực đông bắc. Bốn quận đông bắc đều là đất của dòng tộc Khanh hậu. Trên những mảnh đất đó trang viên nhiều không đếm xuể, trừ binh quyền ra, còn lại phe của Hoàng hậu nắm giữ quyền lực to lớn. Có thể các ngươi không biết, vùng đất đông bắc của Khánh hậu, đều rất cần người trồng trọt, các trai tráng trong trang viên ở bốn quận đông bắc nhiều không kể xiết, đó là một con số khổng lồ. Còn chưa nói đến vùng đông bắc bộ của nước Khánh, đặc biệt là khu vực quận Cao Dương, đó là nơi của những kẻ man rợ, có thể nói là khu vực bạo động nhất của nước Khánh.
Tống Thế Thanh vội đáp:
- Hầu gia, nghe nói quận Cao Dương trước đây là đất của bọn man rợ, từ thời Tề đã khó thu phục chúng. Bá tánh ở đó, tự nhận là tộc Bắc Man, xem ra khó mà thuần hóa…
Tào Ân cười nói:
- Nếu nói đến cùng, đây quả là hậu họa lúc trước mà Tề quốc để lại.
Hàn Mạc tò mò hỏi:
- Nói vậy là sao?
- Hai trăm năm nay đại nghiệp của Tề quốc là tiêu diệt tận gốc bọn người Bắc Man, không dám dòm ngó Trung Nguyên của ta.
Tào Ân than thở nói:
- Tộc Bắc Man ngụ ở phía bắc nước Khánh, từ khi nước Tề lập quốc đến nay, vẫn cứ là mối họa trong lòng của Trung Nguyên ta. Ai cũng biết ban đầu chỉ có một số trai tráng tộc Bắc Man liên tục lảng vãng ở khu vực Bắc Tề, cứ cách năm ba ngày lại đến quấy nhiễu biên cương, cướp của giết người, phá hoại kỉ cương, vệ quân Tề quốc căn bản không phải là đối thủ của tộc Bắc Man.
Tống Thế Thanh lại thở dài:
- Phía bắc nước Khánh là ngàn dặm sa mạc, tộc Bắc Man sinh sống ở đó. Sống trong cảnh đó, tạo nên sức chiến đấu hùng mạnh, tàn ác của tộc Bắc Man. Tộc Bắc Man có trên trăm bộ lạc, phải tàn sát lẫn nhau, chiến loạn triền miên.
- Lời của Tống đại nhân quả đúng trọng tâm.
Tào Ân cười nói:
- Nếu người Bắc Man đoàn kết một thể chỉ e sau này Tề quốc cũng không đánh được.
Hàn Mạc dường như hiểu ra chuyện gì, cẩn thận nói:
- Nhưng ngược lại, sau đó Tề quốc cũng đã lợi dụng việc tiêu hao nhân lực của tộc Bắc Man?
Tào Ân vô cùng tán thưởng ngộ tính của Hàn Mạc nói:
- Đó đã chuyện hơn trăm năm sau khi triều Tề lập quốc. Trong vòng trăm năm, nước Tề bị Bắc Man quấy rối, cũng nhiều lần phát động các cuộc chinh phạt có quy mô. Chỉ là vùng đất của Bắc Man, khắp nơi là cát rộng lớn mênh mông, quân Tề rơi vào sa mạc căn bản không tìm được đội quân chủ lực của Bắc Man, ngược lại Bắc Man trong sa mạc lại như cá gặp nước, tuy quân lực không bằng Tề quốc, nhưng chỉ cần quân Tề vào trong sa mạc thì coi như đã rơi vào tay Bắc Man. Triều Tề ba lần Bắc tiến sa mạc, nhưng chỉ hao tổn quân lực. Tuy là thỉnh thoảng thắng được vài trận nhỏ, nhưng ba lần Bắc chinh đều thất bại quay về, vô số dũng sĩ bỏ mạng trong sa mạc…
Ngừng một lúc, thở dài nói tiếp:
- Mãi cho đến hoàng đế Tề triều đời thứ mười bốn đăng cơ, tại vị 32 năm, định ra quốc sách mới bình loạn Bắc Man. Chỉ là vị Tề Dũng đế một đời anh minh, biết Bắc Man không dễ trừ khử, nên lúc mới đăng cơ, chịu đựng áp lực to lớn, cầu hòa với Bắc Man, bằng cách gả công chúa đến Bắc Man, cho phép buôn bán qua lại.
Tống Thế Thanh nhập thần mà nghe, Hàn Mạc cũng lắng tai nghe từng chữ, chỉ là hắn thông minh lanh lợi, trông thấy tách trà của Tào Ân đã cạn lập tức châm trà.
Tào Ân cười nhẹ, nói tiếp:
- Lúc đó triều Tề với Bắc Man coi nhau là địch thủ, vô số tử sĩ chết trong tay Bắc Man. Cách làm của Tề Dũng đế tất nhiên bị nhiều người phản đối, thậm chí không ít người nghĩ Tề Dũng đế là hạng hôn quân ham sống sợ chết, không ít quan thanh liêm lên triều chỉ trích, Tề Dũng đế vẫn không nương tay, tuy là không giết những người này, nhưng đem họ giam vào đại lao. Tề Dũng đế kiên quyết dùng biện pháp mạnh, còn bọn thương buôn dưới triều Tề đối với chính sách thông thương này thì vô cùng hưởng ứng. Dù sao bọn Bắc Man rất thích thú với vật phẩm Trung Nguyên. Nên hai bên tiến vào thời kì hơn 10 năm hòa bình, tuy là người Bắc Man có lúc đến biên cương nước Tề cướp bóc nho nhỏ, nhưng hơn 10 năm hai bên không còn đại chiến.
Hàn Mạc nói:
- Là kế hoãn binh? Nếu như hạ thần đoán không sai, thông thương chỉ là cái cớ, mục đích thực tế là thông qua thương nhân để tìm hiểu địa thế cũng như thành phần bộ lạc của bọn Bắc Man, binh pháp có câu biết người biết ta trăm trận trăm thắng, triềuTề trước nay nhiều phen đại bại, có khi là vì không hiểu rõ tình hình của bọn Bắc Man.
Tào Ân cười ha ha:
- Hàn Mạc ngươi nói không sai, cái gọi là đại trượng phu co được dãn được, Tề Dũng đế trước đây làm mọi việc, là nhịn nhục một lúc, dốc sức vì dân, nhân lúc hòa bình để xây dựng nhân lực, chuẩn bị cho lần Bắc phạt tiếp theo, còn tộc Bắc Man thì bị hàng loạt chính sách kết thân của triều Tề mê hoặc, cứ nghĩ Tề Dũng đế sợ chúng, dần dần lơ là cảnh giới. Bọn chúng chung quy cũng là bọn thô bạo, đầu óc không thể sánh bằng người Trung Nguyên chúng ta, hàng loạt thương nhân xâm nhập vào địa vực của bọn Bắc Man, thám thính được vô số sự tình và địa thế.
Hàn Mạc cười nói:
- Hạ thần lại nghĩ rằng thương nhân chính là những thám tử công khai.
- Ngoài ra giữa các bộ tộc Bắc Man cũng phát sinh vô số va chạm. Lúc đó bộ lạc lớn nhất là bộ lạc Dã Sử Nại, vô số bộ lạc nhỏ bị bọn chúng đàn áp, trong họ đã tồn tại nỗi oán hận cực độ. Sau khi tù trưởng của bộ lạc Dã Sử Nại qua đời, hai đứa con của hắn là Dã Sử Nại Nguyên và Dã Sử Nại Lê vì tranh đoạt địa vị chém giết tàn nhẫn, nội bộ Dã Sử Nại đấu đá lẫn nhau, không ít tiểu bộ lạc đã liên minh lại, phát động công kích Dã Sử Nại. Lúc này bắt đầu cuộc nội chiến lớn nhất của bộ tộc Bắc Man liên tiếp nhiều năm, thế lực Bắc Man căn bản đã không bằng triều Tề, nội chiến bắt đầu làm suy yếu quân lực của chúng. Còn Tề Dũng đế chịu đựng nhiều năm, đã đến lúc bí mật điều đại binh, đem theo tấm địa đồ của bọn thương nhân hơn 20 năm tình báo đã họa ra, đột ngột phát động công kích Bắc Man.
Nói đến đây, cười một cái, rồi nói:
- Kết quả trận chiến, bản hầu không nói, chắc các ngươi cũng đoán được rồi!
Tống Thế Thanh hào hứng nói:
- Đại công cáo thành!
- Không sai.
Tào Ân cười nói:
- Đại công cáo thành, nội chiến Bắc Man đã làm quân Bắc Man mệt mỏi rã rời, quân Tề như thiên binh ập đến, Bắc Man trở tay không kịp, chết chóc vô số, mười mấy vạn binh bị bắt làm tù binh.... tàn quân Bắc Man không ngừng tháo chạy về phương Bắc, mãi mãi cũng không dám quấy nhiễu Trung Nguyên.
- Vậy mười mấy vạn tù binh xử lí ra sao?
Hàn Mạc hỏi.
Tào Ân nói:
- Đây chính là điều ta mới nói lúc nãy, là đặc điểm của quận Cao Dương. Tề Dũng Đế hùng tài vĩ lược, nhưng cuối cùng lại mềm lòng, không xử chém bọn chúng. Mười mấy vạnBắc Man từ già trẻ lớn bé đến đàn ông đàn bà đều được đưa đến quận Cao Dương. Những người đó đến nay vẫn đang sinh sống ở đây. Đã hơn trăm năm qua đi, tuy là tập quán sinh hoạt của họ đã giống với người Trung Nguyên chúng ta, nhưng hậu duệ tộc Bắc Man vẫn không quên thân phận của mình, vẫn tự xưng là người Bắc Man. Thế nên trong số năm vạn quân của quân đoàn Đông Bắc, riêng quận Cao Dương đã phải bố trí hai vạn quân lính, chỉ là để phòng bị những người Bắc Man lại động dã tâm mà tảo loạn.
- Thì ra là vậy!
Hàn Mạc lúc này mới tỉnh ngộ.
Tào Ân bình tĩnh nói:
- Đông Bắc có vô số trang viên của phe Hoàng Hậu, lại có bọn hậu duệ Bắc Man, chưa kể đến mấy năm gần đây nghe nói ở Mạc Bắc lại xuất hiện tông tích của bọn Bắc Man lẩn trốn ngày trước… Những việc thế này, năm vạn binh nước Khánh ở Đông Bắc, một khi phát sinh sự cố chỉ e là lấy trứng chọi đá, làm sao còn dám điều quân đoàn Đông Bắc về quận Nam Dương, quân đoàn Tây Bắc cũng không thể điều đi. Thế nên tuy nước Khánh có hơn mười mấy vạn binh nhưng phần lớn vẫn phải giữ lại phòng bị Đại Yến ta… Từ đó trở đi các ngươi nghĩ xem, Thương Chung Ly chính thức còn bao nhiêu quân có thể dung? Cho dù lập tức chiêu mộ thêm dân, không thông qua huấn luyện, lại không có kinh nghiệm chiến đấu trên sa trường, đối mặt với đội quân tinh nhuệ của Ngụy quốc, có thể có bao nhiêu năng lực? Cho nên bản hầu mới nói Thương Chung Ly có thể ứng phó với binh lực của Ngụy quốc thì là chuyện rất xa vời…
Dừng một lúc, y cười và tiếp tục nói:
- Cho nên Khánh quốc lần này chủ yếu phòng thủ, chỉ có điều trùng hợp là Thương Chung Ly lại là cao thủ phòng ngự, vừa phòng thủ vừa nắm bắt thời cơ trả đòn đối phương. Cho nên nếu không tính đến các yếu tố khác, mà chỉ đơn thuần là một trận đại chiến giữa hai đối thủ không đội trời chung là Thương Chung Ly và Tư Mã Kình Thiên, thiết nghĩ đây sẽ là một trận đại chiến ngoạn mục!
- Quân đoàn Tây Bắc của nước Khánh không dễ gì điều đến tác chiến ở quận Nam Dương, dù gì thì bên kia sông Ô Mộc còn có hơn hai vạn quân Ngụy. Hai vạn quân này tuy đang nhờ cậy quân đoàn Tây Bắc, nhưng … nếu quân đoàn Tây Bắc điều binh về tuyến Nam Dương, trước tình hình không còn binh lực, chưa chắc quân Ngụy không dám tấn công. Quân Ngụy không dám từ sông Ô Mộc tiến quân, là bởi vì binh lực quân Khánh ở sông Ô Mộc được chuẩn bị hoàn thiện, có đầy đủ khả năng để giữ trụ sông Ô Mộc, một khi binh lực bị điều đi thì việc bố trí binh lực sẽ khiếm khuyết, quân Ngụy nhất định sẽ tìm được yếu điểm …
- Còn binh đoàn Đông Bắc?
Hàn Mạc hỏi:
- Quân ở Đông Bắc cũng có bốn năm vạn quân, nhân số không ít a.
Tào Ân đưa tay vuốt chiếc mũi cao ráo của mình, mỉm cười nói:
- Chớ có nghĩ là nước Khánh rất thái bình.
Y hơi nghiêng người về trước nhẹ giọng nói:
- Đất phong của dòng tộc Khánh hậu, đại bộ phận đều tập trung ở khu vực đông bắc. Bốn quận đông bắc đều là đất của dòng tộc Khanh hậu. Trên những mảnh đất đó trang viên nhiều không đếm xuể, trừ binh quyền ra, còn lại phe của Hoàng hậu nắm giữ quyền lực to lớn. Có thể các ngươi không biết, vùng đất đông bắc của Khánh hậu, đều rất cần người trồng trọt, các trai tráng trong trang viên ở bốn quận đông bắc nhiều không kể xiết, đó là một con số khổng lồ. Còn chưa nói đến vùng đông bắc bộ của nước Khánh, đặc biệt là khu vực quận Cao Dương, đó là nơi của những kẻ man rợ, có thể nói là khu vực bạo động nhất của nước Khánh.
Tống Thế Thanh vội đáp:
- Hầu gia, nghe nói quận Cao Dương trước đây là đất của bọn man rợ, từ thời Tề đã khó thu phục chúng. Bá tánh ở đó, tự nhận là tộc Bắc Man, xem ra khó mà thuần hóa…
Tào Ân cười nói:
- Nếu nói đến cùng, đây quả là hậu họa lúc trước mà Tề quốc để lại.
Hàn Mạc tò mò hỏi:
- Nói vậy là sao?
- Hai trăm năm nay đại nghiệp của Tề quốc là tiêu diệt tận gốc bọn người Bắc Man, không dám dòm ngó Trung Nguyên của ta.
Tào Ân than thở nói:
- Tộc Bắc Man ngụ ở phía bắc nước Khánh, từ khi nước Tề lập quốc đến nay, vẫn cứ là mối họa trong lòng của Trung Nguyên ta. Ai cũng biết ban đầu chỉ có một số trai tráng tộc Bắc Man liên tục lảng vãng ở khu vực Bắc Tề, cứ cách năm ba ngày lại đến quấy nhiễu biên cương, cướp của giết người, phá hoại kỉ cương, vệ quân Tề quốc căn bản không phải là đối thủ của tộc Bắc Man.
Tống Thế Thanh lại thở dài:
- Phía bắc nước Khánh là ngàn dặm sa mạc, tộc Bắc Man sinh sống ở đó. Sống trong cảnh đó, tạo nên sức chiến đấu hùng mạnh, tàn ác của tộc Bắc Man. Tộc Bắc Man có trên trăm bộ lạc, phải tàn sát lẫn nhau, chiến loạn triền miên.
- Lời của Tống đại nhân quả đúng trọng tâm.
Tào Ân cười nói:
- Nếu người Bắc Man đoàn kết một thể chỉ e sau này Tề quốc cũng không đánh được.
Hàn Mạc dường như hiểu ra chuyện gì, cẩn thận nói:
- Nhưng ngược lại, sau đó Tề quốc cũng đã lợi dụng việc tiêu hao nhân lực của tộc Bắc Man?
Tào Ân vô cùng tán thưởng ngộ tính của Hàn Mạc nói:
- Đó đã chuyện hơn trăm năm sau khi triều Tề lập quốc. Trong vòng trăm năm, nước Tề bị Bắc Man quấy rối, cũng nhiều lần phát động các cuộc chinh phạt có quy mô. Chỉ là vùng đất của Bắc Man, khắp nơi là cát rộng lớn mênh mông, quân Tề rơi vào sa mạc căn bản không tìm được đội quân chủ lực của Bắc Man, ngược lại Bắc Man trong sa mạc lại như cá gặp nước, tuy quân lực không bằng Tề quốc, nhưng chỉ cần quân Tề vào trong sa mạc thì coi như đã rơi vào tay Bắc Man. Triều Tề ba lần Bắc tiến sa mạc, nhưng chỉ hao tổn quân lực. Tuy là thỉnh thoảng thắng được vài trận nhỏ, nhưng ba lần Bắc chinh đều thất bại quay về, vô số dũng sĩ bỏ mạng trong sa mạc…
Ngừng một lúc, thở dài nói tiếp:
- Mãi cho đến hoàng đế Tề triều đời thứ mười bốn đăng cơ, tại vị 32 năm, định ra quốc sách mới bình loạn Bắc Man. Chỉ là vị Tề Dũng đế một đời anh minh, biết Bắc Man không dễ trừ khử, nên lúc mới đăng cơ, chịu đựng áp lực to lớn, cầu hòa với Bắc Man, bằng cách gả công chúa đến Bắc Man, cho phép buôn bán qua lại.
Tống Thế Thanh nhập thần mà nghe, Hàn Mạc cũng lắng tai nghe từng chữ, chỉ là hắn thông minh lanh lợi, trông thấy tách trà của Tào Ân đã cạn lập tức châm trà.
Tào Ân cười nhẹ, nói tiếp:
- Lúc đó triều Tề với Bắc Man coi nhau là địch thủ, vô số tử sĩ chết trong tay Bắc Man. Cách làm của Tề Dũng đế tất nhiên bị nhiều người phản đối, thậm chí không ít người nghĩ Tề Dũng đế là hạng hôn quân ham sống sợ chết, không ít quan thanh liêm lên triều chỉ trích, Tề Dũng đế vẫn không nương tay, tuy là không giết những người này, nhưng đem họ giam vào đại lao. Tề Dũng đế kiên quyết dùng biện pháp mạnh, còn bọn thương buôn dưới triều Tề đối với chính sách thông thương này thì vô cùng hưởng ứng. Dù sao bọn Bắc Man rất thích thú với vật phẩm Trung Nguyên. Nên hai bên tiến vào thời kì hơn 10 năm hòa bình, tuy là người Bắc Man có lúc đến biên cương nước Tề cướp bóc nho nhỏ, nhưng hơn 10 năm hai bên không còn đại chiến.
Hàn Mạc nói:
- Là kế hoãn binh? Nếu như hạ thần đoán không sai, thông thương chỉ là cái cớ, mục đích thực tế là thông qua thương nhân để tìm hiểu địa thế cũng như thành phần bộ lạc của bọn Bắc Man, binh pháp có câu biết người biết ta trăm trận trăm thắng, triềuTề trước nay nhiều phen đại bại, có khi là vì không hiểu rõ tình hình của bọn Bắc Man.
Tào Ân cười ha ha:
- Hàn Mạc ngươi nói không sai, cái gọi là đại trượng phu co được dãn được, Tề Dũng đế trước đây làm mọi việc, là nhịn nhục một lúc, dốc sức vì dân, nhân lúc hòa bình để xây dựng nhân lực, chuẩn bị cho lần Bắc phạt tiếp theo, còn tộc Bắc Man thì bị hàng loạt chính sách kết thân của triều Tề mê hoặc, cứ nghĩ Tề Dũng đế sợ chúng, dần dần lơ là cảnh giới. Bọn chúng chung quy cũng là bọn thô bạo, đầu óc không thể sánh bằng người Trung Nguyên chúng ta, hàng loạt thương nhân xâm nhập vào địa vực của bọn Bắc Man, thám thính được vô số sự tình và địa thế.
Hàn Mạc cười nói:
- Hạ thần lại nghĩ rằng thương nhân chính là những thám tử công khai.
- Ngoài ra giữa các bộ tộc Bắc Man cũng phát sinh vô số va chạm. Lúc đó bộ lạc lớn nhất là bộ lạc Dã Sử Nại, vô số bộ lạc nhỏ bị bọn chúng đàn áp, trong họ đã tồn tại nỗi oán hận cực độ. Sau khi tù trưởng của bộ lạc Dã Sử Nại qua đời, hai đứa con của hắn là Dã Sử Nại Nguyên và Dã Sử Nại Lê vì tranh đoạt địa vị chém giết tàn nhẫn, nội bộ Dã Sử Nại đấu đá lẫn nhau, không ít tiểu bộ lạc đã liên minh lại, phát động công kích Dã Sử Nại. Lúc này bắt đầu cuộc nội chiến lớn nhất của bộ tộc Bắc Man liên tiếp nhiều năm, thế lực Bắc Man căn bản đã không bằng triều Tề, nội chiến bắt đầu làm suy yếu quân lực của chúng. Còn Tề Dũng đế chịu đựng nhiều năm, đã đến lúc bí mật điều đại binh, đem theo tấm địa đồ của bọn thương nhân hơn 20 năm tình báo đã họa ra, đột ngột phát động công kích Bắc Man.
Nói đến đây, cười một cái, rồi nói:
- Kết quả trận chiến, bản hầu không nói, chắc các ngươi cũng đoán được rồi!
Tống Thế Thanh hào hứng nói:
- Đại công cáo thành!
- Không sai.
Tào Ân cười nói:
- Đại công cáo thành, nội chiến Bắc Man đã làm quân Bắc Man mệt mỏi rã rời, quân Tề như thiên binh ập đến, Bắc Man trở tay không kịp, chết chóc vô số, mười mấy vạn binh bị bắt làm tù binh.... tàn quân Bắc Man không ngừng tháo chạy về phương Bắc, mãi mãi cũng không dám quấy nhiễu Trung Nguyên.
- Vậy mười mấy vạn tù binh xử lí ra sao?
Hàn Mạc hỏi.
Tào Ân nói:
- Đây chính là điều ta mới nói lúc nãy, là đặc điểm của quận Cao Dương. Tề Dũng Đế hùng tài vĩ lược, nhưng cuối cùng lại mềm lòng, không xử chém bọn chúng. Mười mấy vạnBắc Man từ già trẻ lớn bé đến đàn ông đàn bà đều được đưa đến quận Cao Dương. Những người đó đến nay vẫn đang sinh sống ở đây. Đã hơn trăm năm qua đi, tuy là tập quán sinh hoạt của họ đã giống với người Trung Nguyên chúng ta, nhưng hậu duệ tộc Bắc Man vẫn không quên thân phận của mình, vẫn tự xưng là người Bắc Man. Thế nên trong số năm vạn quân của quân đoàn Đông Bắc, riêng quận Cao Dương đã phải bố trí hai vạn quân lính, chỉ là để phòng bị những người Bắc Man lại động dã tâm mà tảo loạn.
- Thì ra là vậy!
Hàn Mạc lúc này mới tỉnh ngộ.
Tào Ân bình tĩnh nói:
- Đông Bắc có vô số trang viên của phe Hoàng Hậu, lại có bọn hậu duệ Bắc Man, chưa kể đến mấy năm gần đây nghe nói ở Mạc Bắc lại xuất hiện tông tích của bọn Bắc Man lẩn trốn ngày trước… Những việc thế này, năm vạn binh nước Khánh ở Đông Bắc, một khi phát sinh sự cố chỉ e là lấy trứng chọi đá, làm sao còn dám điều quân đoàn Đông Bắc về quận Nam Dương, quân đoàn Tây Bắc cũng không thể điều đi. Thế nên tuy nước Khánh có hơn mười mấy vạn binh nhưng phần lớn vẫn phải giữ lại phòng bị Đại Yến ta… Từ đó trở đi các ngươi nghĩ xem, Thương Chung Ly chính thức còn bao nhiêu quân có thể dung? Cho dù lập tức chiêu mộ thêm dân, không thông qua huấn luyện, lại không có kinh nghiệm chiến đấu trên sa trường, đối mặt với đội quân tinh nhuệ của Ngụy quốc, có thể có bao nhiêu năng lực? Cho nên bản hầu mới nói Thương Chung Ly có thể ứng phó với binh lực của Ngụy quốc thì là chuyện rất xa vời…
Dừng một lúc, y cười và tiếp tục nói:
- Cho nên Khánh quốc lần này chủ yếu phòng thủ, chỉ có điều trùng hợp là Thương Chung Ly lại là cao thủ phòng ngự, vừa phòng thủ vừa nắm bắt thời cơ trả đòn đối phương. Cho nên nếu không tính đến các yếu tố khác, mà chỉ đơn thuần là một trận đại chiến giữa hai đối thủ không đội trời chung là Thương Chung Ly và Tư Mã Kình Thiên, thiết nghĩ đây sẽ là một trận đại chiến ngoạn mục!