Chương 8
Trong lúc hắn vất vả đi bộ qua hệ thống cống ngầm dưới thành phố, Nicholai thấy mình bị mê hoặc bởi cách thiết kế tỉ mỉ của thành phố Raccoon. Tất nhiên hắn đã nhìn kỹ bản đồ, nhưng đó là việc hoàn toàn khác với đi lang thang trong nó, đích thân nếm trải cách sắp xếp. Umbrella đã xây dựng một sân chơi hoàn hảo; không may chính chúng đã phá hủy nó. Có cả tá đường hầm nối với những khu vực chủ quyền Umbrella, một số rõ ràng hơn số khác. Từ tầng hầm tòa nhà RPD, hắn vào đường cống sẽ dẫn hắn tới phòng thí nghiệm chìm nhiều tầng nơi Umbrella đã thực hiện cuộc nghiên cứu quan trọng nhất. Nghiên cứu cũng được tiến hành ở phòng thí nghiệm biệt thự Arklay/Spencer trong rừng Raccoon, và ở đó là ba nhà máy “bỏ hoang” hay khu vực nhà kho thử nghiệm vùng ngoại ô thành phố, nhưng những nhà khoa học tài giỏi nhất đều làm việc ở trong và dưới thành phố. Điều đó chắc chắn sẽ giúp công việc hắn dễ dàng hơn; đi từ khu vực này đến khu vực khác dưới lòng đất bớt nguy hiểm hơn. Dù sao cũng không lâu nữa. Trong khoảng 10-12 giờ nữa, sẽ không còn đâu an toàn. Đám vũ khí sinh học Umbrella thử nghiệm lâu nay được nuôi lớn trong Raccoon, giữ bằng thuốc an thần, nhưng thường bị đưa đi đâu đó để thử nghiệm thực tế. Trong lần tiến hành kế hoạch ở khu phế tích, chúng phá chuồng đi tìm thức ăn; vài con chắc đã thoát; đa số chúng sẽ trở về khi thiếu thuốc.
“Vậy không vui sao? Một buổi tập ngắm nho nhỏ giải khuây trong lúc tìm kiếm, với hỏa lực để làm việc đó”.
Kẹp khẩu súng bằng vai phải, hắn với xuống vỗ mấy băng đạn hắn lấy từ Wersbowski; hắn chưa nghĩ tới kiểm tra chúng trước đó, nhưng liếc nhanh qua trước khi xuống cống làm hắn thỏa mãn. Lính U. B. C. S. được phát đạn bọc cỡ. 223, được thiết kế để xuyên thủng hoàn toàn mục tiêu; Wersbowski đã dùng loại đầu rỗng, khi tiếp cận mục tiêu sẽ dẹp ra gây sát thương cao nhất. Nicholai đã lên kế hoạch cướp kho đạn phòng thí nghiệm; có thêm 60 băng HP, hắn sẽ di chuyển dễ dàng…
“…không như bây giờ…”
Dòng nước tối tăm lạnh lẽo chảy trong những đường hầm thiếu ánh sát cao gần tới đầu gối hắn bốc mùi kinh khủng, giống mùi NH3 và mốc. Hắn đã chạm mặt nhiều con zombie đa số mặc áo khoác phòng thí nghiệm Umbrella, số ít là dân thường – nhân viên bảo trì, hay vài linh hồn kém may mắn đi vào cống ngầm tìm cách thoát khỏi thành phố. Đa số hắn tránh chúng, không muốn lãng phí đạn hay đánh động vị trí của hắn cho bất kỳ ai.
Hắn tới ngã ba, quẹo phải sau khi xem xét hai hướng. Cho tới lúc này trong chuyến hành trình của hắn, không gì ngoài tiếng nước bẩn chảy vỗ vào thành đá xám, tiếng rì rầm từ những ngọn đèn vàng ảm đạm phản chiếu mặt nước loáng dầu. Trong khung cảnh ẩm ướt tồi tàn, Nicholai không thể không nghĩ tới đám A334, đám sâu trượt. Tại buổi họp Watchdog, chúng được xếp là những con giống đỉa khổng lồ di chuyển trong nước theo nhóm, một trong những sinh vật Umbrella mới tạo ra. Hắn không sợ nhiều bằng ghê tởm cái ý nghĩ chạm mặt chúng, còn hắn ghét những bất ngờ, ghét cái ý nghĩ ngay bây giờ cả đàn bọn chúng đang trượt trong làn nước đen, hàm mở rộng, tìm kiếm dòng máu ấm, bổ dưỡng từ con người. Khi hắn thấy bờ gờ nổi cuối đường hầm, hắn thấy xấu hổ về sự mừng rỡ hắn cảm thấy. Hắn mau chóng chặn cảm giác đó lại, chuẩn bị cho cuộc gặp của hắn; hắn bước ra khỏi làn nước, cái liếc vào đồng hồ cho biết hắn đã đúng giờ. Tiến sĩ Thomlinson sẽ báo cáo trong vòng mười phút nữa.
Nicholai đi nhanh xuống hành lang ngắn trước mặt, bực mình vì tiếng lép nhép giày hắn tạo ra khi rắn đến được cửa phòng dẫn vào nhà kho. Hắn lắng nghe một chút không có gì; đẩy nhẹ cánh cửa cho nó mở ra, hiện ra là căn phòng nghỉ cho công nhân thành phố - một cái bàn, vài cái ghế, tủ đồ - và, gắn ở phía tường xa xa, một cái thang xuống tầng dưới. Hắn lẻn vào, đóng nhẹ cánh cửa sau lưng. Cái thang dẫn xuống phòng kho nhỏ nơi tiến sĩ Thomlinson sẽ báo cáo; cái máy tính ẩn sau vài vật dụng lau chùi trên một cái kệ. Đoán rằng Thomlinson sẽ đến từ phòng thí nghiệm, cô ta sẽ sử dụng cái thang máy nhỏ phía góc phòng, nếu hắn đọc bản đồ đúng. Nicholai ngồi xuống đợi, mở túi trên vai lấy laptop ra; hắn muốn kiểm tra bản đồ sau cuộc gặp mặt vị tiến sĩ tốt bụng.
Thomlinson là người đúng giờ, đến trước 4 phút trước giờ cô phải báo cáo. Nghe tiếng động cơ ken két đi lên, Nicholai chĩa khẩu súng về phía góc, ngón tay sẵn trên cò. Một phụ nữ cao ráo, tóc tai rối bời hiện lên, cái nhìn quẫn trí trên gương mặt lấm bẩn. Cô ta mặc cái áo phòng thí nghiệm lấm máu, mang theo khẩu handgun đang chĩa xuống sàn; rõ ràng cô ta chắc chắn nơi liên lạc của cô ta an toàn. Nicholai không cho cô ta cơ hội phản ứng với sự hiện diện của hắn.
“Bỏ vũ khí xuống và bước khỏi cái thang máy. Mau lên. ”
Cô ta là một người điềm tĩnh, hắn phải công nhận vậy. Ngoại trừ đôi mắt hơi mở to, không dấu hiệu hoảng sợ nào lộ trên gương mặt cân đối. Cô ta làm theo lời hắn, khẩu súng rơi xụống kêu lách cách khi cô uể oải bước vài bước vào phòng.
“Có báo cáo gì mới không Janice?”
Cô ta nhìn hắn chăm chú, ánh mắt nâu nhạt tìm kiếm ánh mắt hắn, cô khoanh tay lại. “Anh là một Watchdog”, cô nói. Đó không phải là câu hỏi.
Nicholai gật: “Bỏ hết mọi thứ trong túi cô lên bàn đi tiến sĩ. Chậm thôi. ”
Thomlinson mỉm cười: “Và nếu tôi không bỏ ra thì sao?”. Giọng cô ta khàn khàn, bí ẩn, đầy cám dỗ. “Liệu anh có…chiếm đoạt nó từ tôi không?”
Nicholai nghĩ vài giây về điều cô ta đang ám chỉ rồi bóp cò, xóa đi nụ cười đáng yêu bằng loạt đạn bất ngờ. Thật sự, hắn không có thời gian chơi trò đó; đáng ra hắn phải bắn cô ta lúc vừa gặp, như thế hắn đã không bị cám dỗ. Hơn nữa, chân hắn lạnh và ướt, hắn ghét điều đó; không có gì làm một người đàn ông khốn khổ hơn là đôi giày ướt.
“Dù sao cũng thật xấu hổ”; cô ta thuộc mẫu người hắn thích, cao, có những đường cong và rõ ràng thông minh. Hắn bước tới cơ thể đổ sụp của cô ta, lấy cái đĩa từ túi, không nhìn vào gương mặt đã bị lẫn lộn xương và máu, tự nhủ lòng đây là công việc.
“Chỉ còn bốn người”. Nicholai nhét cái đĩa vào túi plastic, khóa lại rồi bỏ vào trong túi. Vẫn còn thời gian để xem qua nội dung nó sau, một khi hắn thu thập tất cả.
Hắn bật máy lên, mở bản đồ hệ thống cống ngầm, mặt cau có xác định lối đi tiếp theo. Ít nhất thêm nửa dặm mò mẫm trong bóng tối trước khi lên được phía trên. Hắn liếc nhìn tiến sĩ Thomlinson lần nữa và thở dài; có lẽ hắn đã phạm sai lầm. Đùa giỡn với cô ta một chút có thể làm nóng người hắn…mặc dù hắn ghét phải giết phụ nữ sau khi đã vui vẻ với họ dù chỉ một chút; lần cuối cùng, hắn nếm cảm giác hối tiếc thật sự.
Không sao cả. Cô ta đã chết, hắn có thông tin, tới lúc phải tiếp tục. Còn bốn người, sau đó hắn có thể không nghĩ tới làm việc trong quãng đời cực kì giàu có còn lại của hắn, tập trung với những thú vui mà những tên nghèo rớt mồng tơi chỉ có thể mơ tới.
Carlos biết anh đang ở gần thôi. Từ khu vực gần tòa soạn báo, chỗ mọi bảng hiệu đường đều bắt đầu với chữ phía bắc, cuối cùng anh lạc trong dãy hẻm dẫn tới phía đông – nơi hẳn là khu mua sắm Trent nhắc đến.
“Ông ta nói khu mua sắm, phía đông bắc…vậy cái nhà hát đâu? Ông ta cũng nói gì đó về đài phun nước, có không nhỉ?”
Carlos đứng trước tiệm cắt tóc bít kín ở chỗ giao nhau hai con hẻm, không còn biết phải đi lối nào. Không có bảng chỉ đường xung quanh, hoàng hôn đã tắt; bầu trời tối như mực và chỉ còn 10 phút là tới 19h thời hạn cuối cùng, vì cái sai lầm ngớ ngẩn lúc đầu đã dẫn anh đi ngược về khu công nghiệp thành phố - theo lời Trent, thì đây cũng không thể gọi là thành phố. Mười phút…sau đó là gì? Khi tìm được quán Grill 13 vô danh đó, chuyện gì sẽ xảy ra? Trent có nói gì về giúp đỡ…vậy nếu anh lỡ giờ hẹn, Trent có làm được gì giúp anh không?
“Quẹo trái có thể dẫn về tòa soạn báo”, anh nghĩ thế - “hay nó ở sau lưng? Đi thẳng tới là đường cụt với một cánh cửa anh chưa thử mở, cứ thử bắn nó xem sao…”
Anh không thấy nó đang đến, nhưng nghe thấy.
Vừa tiến lên một bước, cánh cửa sau lưng bật tung – thứ đó nhanh tới nỗi khi nó với tới anh vẫn còn đang quay lại chĩa khẩu súng về cánh cửa.
“Cái…”
Một làn sóng hôi thối, ấn tượng với bộ móng đen bóng, cơ thể rắn chắc, sọc vằn như bộ xương ngoài vài loài côn trùng khổng lồ…
…và cái gì đó xé không khí cách mặt anh vài inches, đã trúng vào mặt nếu anh không bước lùi lại. Anh vấp ngã, kinh hoàng nhìn thứ gì đó bay qua mặt, nhanh nhẹn nhảy qua bức tường bên phải, tiếp tục chạy, báng lên những viên gạch theo từng bước phi nước đại. Kinh hoàng, Carlos ngoái theo, lưng nằm sóng soài, nhìn nó lẹ làng xoay quanh ba trong số chân rồi nhảy xuống đất. Anh có thể cứ đợi nó đến, không tin vào mắt mình cả khi có dùng một trong sáu cái cẳng dài sắc như dao chém vào cuống họng, trừ việc nó la hét – tiếng kêu rống hoan hỉ thắng lợi phát ra từ gương mặt cong, sưng phồng tàn bạo của nó đủ khiến anh nhúc nhích.
Trong chớp mắt, Carlos lăn thành thế cúi, nổ súng vào con vật đang kêu gào, chạy lung tung đó, không nhận ra chính mình cũng đang thét, tiếng la khe khẽ, cáu bẳn của nỗi kinh hoàng và sự hoài nghi. Con quái loạng choạng theo từng viên đạn xuyên qua thớ thịt giòn của nó, chân nó quật điên cường, tiếng rít chuyển thành tiếng rú đau đớn khủng khiếp. Carlos cứ bắn, rưới vào con sinh vật hàng chục viên kim loại chết người nóng hổi, vẫn tiếp tục cả sau khi nó đổ gục, chỉ chuyển động vì những viên đạn giật thân hình khập khiễng của nó. Anh biết nó đã chết nhưng không dừng lại được cho tới lúc khẩu M16 cạn sạch, con hẻm im như tờ ngoài hơi thở đau đớn của chính mình. Dựa lưng vào tường, đập một băng mới vào súng, cố hiểu chuyện quái gì vừa xảy ra.
Sau cùng anh cũng hoàn hồn trở lại tiến về con vật đã chết – nó đã chết; ngay cả một con bọ sáu chân, leo tường bự bằng con người cũng chết khi não nó chảy ra khỏi sọ. Đó là sự thật anh có thể bấu víu vào trong cảnh điên loạn này.
“Chết queo”, anh nói, nhìn xuống con vật máu me, nhăn nhúm, trong một giây, anh cảm thấy phần nào đó trong tâm trí muốn thu vào, ngăn anh nhìn. Zombie đã đủ tệ, anh cuối cùng đã từ chối chấp nhận sự thật Raccoon tràn ngập những xác chết biết đi; chúng chỉ bị bệnh, căn bệnh ăn thịt người anh đọc được, vì không có zombie trên đời ngoại trừ trong phim ảnh. Cũng như không có quái vật thật sự, không có những con bọ giết người đầy móng đi trên tường, gào thét như nó đã từng…
“Wo hay piri”, anh thì thầm châm ngôn một thời, lần này nói như khẩn cầu, tâm trí nghĩ theo như một loại kinh cầu tuyệt vọng, Đừng cố quá, thư giãn đi, bình tĩnh nào. Sau một lúc nó bắt đầu tác dụng; nhịp tim đập chậm gần bằng bình thường, bắt đầu cảm thấy như một con người trở lại, không phải một con thú hoảng loạn, ngu đần.
“Vậy, có quái vật trong thành phố Raccoon”. Không phải là điều bất ngờ sau một ngày anh đã trải qua; hơn nữa, chúng cũng chết như nhưng sinh vật khác, không phải sao? Anh sẽ không sống sót nổi nếu quên điều đó, anh đã đi quá xa để đầu hàng bây giờ.
Nghĩ thế, Carlos quay lưng lại con quái rồi đi xuống con hẻm, ép mình không ngoái lại. Nó đã chết, anh vẫn sống, có nhiều khả năng còn cả đống tụi nó ngoài kia.
“Trent là lối thoát duy nhất cho mình, giờ mình còn…khốn kiếp! Ba phút, anh còn chỉ còn ba phút chết tiệt”.
Carlos chạy, lên vài bậc dẫn tới cửa cuối con hẻm và chạy qua – thấy mình đang đứng trong căn bếp sáng sủa rộng rãi. Căn bếp trong nhà hàng.
Nhìn xung quanh; không có ai, yên ắng nếu không kể tiếng xì nhẹ từ bình gas bự đang dựa vào tường. Anh hít một hơi sâu nhưng không ngửi thấy gì; chắc có gì khác nữa-
-“và mình không thể ra khỏi đây nếu đó là gas độc. Hẳn là chỗ này, nơi ông ta bảo mình đến”.
Anh bước khỏi gian bếp, qua những bàn kim loại sáng bóng và những cái bếp, hướng ra khu vực phòng ăn. Trên một cái bàn có tờ menu, chữ GRILL 13 viết bằng chữ vàng ở mặt trước. Thật mệt mỏi, anh cảm thấy yên lòng làm sao; chỉ trong vài giờ, Trent đã chuyển từ một người lạ mặt kì quái thành người bạn tốt nhất thế giới.
“Mình làm được rồi, ông ta nói có thể giúp – có thể đội cứu hộ đã lên đường, hay ông ta sắp xếp cho mình được đón ở đây…hoặc có vũ khí ở đằng trước, không tốt như được di tản nhưng mình sẽ lấy cái nào lấy được”.
Bức tường giữa bếp và phòng ăn có khoảng trống, cái quầy chỗ đầu bếp để thức ăn lên. Carlos có thể thấy cái nhà hàng nhỏ hơi tối hơn không có ai cả, dù vậy anh mất một lúc để kiểm tra chắc chắn; ánh sáng nhảy múa từ một cái đèn dầu le lói đung đưa trên cái buồng da xếp dọc theo tường, tỏa ra những cái bóng đáng sợ.
Anh bước qua quầy phục vụ hướng vào phòng, tình cờ ngửi thấy mùi đồ ăn chiên trong không khí mát lạnh đồng thời nhìn quanh, tìm kiếm. Anh không rõ mình trông đợi điều gì, nhưng chắc chắn không thấy nó – không bao thư chưa đánh dấu trên bàn, không có gói hàng bí ẩn, không có người mặc áo choàng đang đợi. Cạnh cửa trước có buồng điện thoại; Carlos bước tới nhấc ống nghe lên, nó cũng im lặng như những điện thoại khác trong thành phố.
Kiểm tra đồng hồ lần thứ một ngàn trong những giờ qua, thấy đã là 1901, một phút quá 7 giờ, cơn giận trào lên cùng sự thất vọng, nhưng nó chỉ làm tăng nỗi sợ vô hình của anh. “Mình đơn độc, không ai biết mình ở đây và không ai có thể giúp mình”.
“Tôi tới rồi đây”, anh nói, quay mặt vào căn phòng trống, cao giọng, “Tôi đã làm được, tôi tới đây đúng giờ và chết tiệt, ông ở đâu vậy hả?”
Như bắt được tín hiệu, điện thoại réo vang, âm thanh chói tai làm anh nhảy dựng lên, Carlos dò dẫm tìm cái ống nghe, tim nở ra trong lồng ngực, đôi chân run lên vì hi vọng.
“Trent? Là ông phải không?”
Ngừng một lục, giọng êm ái, du dương của Trent lọt vào tai anh: “Hola, cậu Oliveira! Tôi rất mừng khi nghe giọng cậu!”
“Trời, chưa bằng một nửa tôi mừng khi nghe giọng ông đâu”, Carlos ngồi bệt xuống tựa vào tường, nắm chặt ống nghe.
“Chuyện này thật kinh khủng, amigo, mọi người đã chết, ngoài kia có những thứ - quái vật, Trent à. Ông đưa tôi ra khỏi đây được không? Nói với tôi là ông có thể đưa tôi ra khỏi đây đi!”
Một khoảng lặng nữa, Trent thở dài, âm thanh nặng nhọc. Carlos nhắm mắt lại, đoán chắc ông ta sẽ nói gì.
“Tôi rất xin lỗi, nhưng chuyện đó hoàn toàn ngoài khả năng. Điều tôi có thể làm là cho cậu biết thông tin…còn sống sót là việc của cậu. Tôi e mọi thứ sẽ tệ, tệ hơn nhiều trước khi nó chuyển biến tốt hơn. ”
Carlos hít hơi sâu, gật đầu với chính mình, biết đây là điều anh đã trông đợi suốt quãng đường. Anh phải tự sinh tồn.
“Được rồi”, anh mở mắt ra, đứng thẳng dậy gật đầu lần nữa. “Nói đi. ”
Trong lúc hắn vất vả đi bộ qua hệ thống cống ngầm dưới thành phố, Nicholai thấy mình bị mê hoặc bởi cách thiết kế tỉ mỉ của thành phố Raccoon. Tất nhiên hắn đã nhìn kỹ bản đồ, nhưng đó là việc hoàn toàn khác với đi lang thang trong nó, đích thân nếm trải cách sắp xếp. Umbrella đã xây dựng một sân chơi hoàn hảo; không may chính chúng đã phá hủy nó. Có cả tá đường hầm nối với những khu vực chủ quyền Umbrella, một số rõ ràng hơn số khác. Từ tầng hầm tòa nhà RPD, hắn vào đường cống sẽ dẫn hắn tới phòng thí nghiệm chìm nhiều tầng nơi Umbrella đã thực hiện cuộc nghiên cứu quan trọng nhất. Nghiên cứu cũng được tiến hành ở phòng thí nghiệm biệt thự Arklay/Spencer trong rừng Raccoon, và ở đó là ba nhà máy “bỏ hoang” hay khu vực nhà kho thử nghiệm vùng ngoại ô thành phố, nhưng những nhà khoa học tài giỏi nhất đều làm việc ở trong và dưới thành phố. Điều đó chắc chắn sẽ giúp công việc hắn dễ dàng hơn; đi từ khu vực này đến khu vực khác dưới lòng đất bớt nguy hiểm hơn. Dù sao cũng không lâu nữa. Trong khoảng 10-12 giờ nữa, sẽ không còn đâu an toàn. Đám vũ khí sinh học Umbrella thử nghiệm lâu nay được nuôi lớn trong Raccoon, giữ bằng thuốc an thần, nhưng thường bị đưa đi đâu đó để thử nghiệm thực tế. Trong lần tiến hành kế hoạch ở khu phế tích, chúng phá chuồng đi tìm thức ăn; vài con chắc đã thoát; đa số chúng sẽ trở về khi thiếu thuốc.
“Vậy không vui sao? Một buổi tập ngắm nho nhỏ giải khuây trong lúc tìm kiếm, với hỏa lực để làm việc đó”.
Kẹp khẩu súng bằng vai phải, hắn với xuống vỗ mấy băng đạn hắn lấy từ Wersbowski; hắn chưa nghĩ tới kiểm tra chúng trước đó, nhưng liếc nhanh qua trước khi xuống cống làm hắn thỏa mãn. Lính U. B. C. S. được phát đạn bọc cỡ. 223, được thiết kế để xuyên thủng hoàn toàn mục tiêu; Wersbowski đã dùng loại đầu rỗng, khi tiếp cận mục tiêu sẽ dẹp ra gây sát thương cao nhất. Nicholai đã lên kế hoạch cướp kho đạn phòng thí nghiệm; có thêm 60 băng HP, hắn sẽ di chuyển dễ dàng…
“…không như bây giờ…”
Dòng nước tối tăm lạnh lẽo chảy trong những đường hầm thiếu ánh sát cao gần tới đầu gối hắn bốc mùi kinh khủng, giống mùi NH3 và mốc. Hắn đã chạm mặt nhiều con zombie đa số mặc áo khoác phòng thí nghiệm Umbrella, số ít là dân thường – nhân viên bảo trì, hay vài linh hồn kém may mắn đi vào cống ngầm tìm cách thoát khỏi thành phố. Đa số hắn tránh chúng, không muốn lãng phí đạn hay đánh động vị trí của hắn cho bất kỳ ai.
Hắn tới ngã ba, quẹo phải sau khi xem xét hai hướng. Cho tới lúc này trong chuyến hành trình của hắn, không gì ngoài tiếng nước bẩn chảy vỗ vào thành đá xám, tiếng rì rầm từ những ngọn đèn vàng ảm đạm phản chiếu mặt nước loáng dầu. Trong khung cảnh ẩm ướt tồi tàn, Nicholai không thể không nghĩ tới đám A334, đám sâu trượt. Tại buổi họp Watchdog, chúng được xếp là những con giống đỉa khổng lồ di chuyển trong nước theo nhóm, một trong những sinh vật Umbrella mới tạo ra. Hắn không sợ nhiều bằng ghê tởm cái ý nghĩ chạm mặt chúng, còn hắn ghét những bất ngờ, ghét cái ý nghĩ ngay bây giờ cả đàn bọn chúng đang trượt trong làn nước đen, hàm mở rộng, tìm kiếm dòng máu ấm, bổ dưỡng từ con người. Khi hắn thấy bờ gờ nổi cuối đường hầm, hắn thấy xấu hổ về sự mừng rỡ hắn cảm thấy. Hắn mau chóng chặn cảm giác đó lại, chuẩn bị cho cuộc gặp của hắn; hắn bước ra khỏi làn nước, cái liếc vào đồng hồ cho biết hắn đã đúng giờ. Tiến sĩ Thomlinson sẽ báo cáo trong vòng mười phút nữa.
Nicholai đi nhanh xuống hành lang ngắn trước mặt, bực mình vì tiếng lép nhép giày hắn tạo ra khi rắn đến được cửa phòng dẫn vào nhà kho. Hắn lắng nghe một chút không có gì; đẩy nhẹ cánh cửa cho nó mở ra, hiện ra là căn phòng nghỉ cho công nhân thành phố - một cái bàn, vài cái ghế, tủ đồ - và, gắn ở phía tường xa xa, một cái thang xuống tầng dưới. Hắn lẻn vào, đóng nhẹ cánh cửa sau lưng. Cái thang dẫn xuống phòng kho nhỏ nơi tiến sĩ Thomlinson sẽ báo cáo; cái máy tính ẩn sau vài vật dụng lau chùi trên một cái kệ. Đoán rằng Thomlinson sẽ đến từ phòng thí nghiệm, cô ta sẽ sử dụng cái thang máy nhỏ phía góc phòng, nếu hắn đọc bản đồ đúng. Nicholai ngồi xuống đợi, mở túi trên vai lấy laptop ra; hắn muốn kiểm tra bản đồ sau cuộc gặp mặt vị tiến sĩ tốt bụng.
Thomlinson là người đúng giờ, đến trước 4 phút trước giờ cô phải báo cáo. Nghe tiếng động cơ ken két đi lên, Nicholai chĩa khẩu súng về phía góc, ngón tay sẵn trên cò. Một phụ nữ cao ráo, tóc tai rối bời hiện lên, cái nhìn quẫn trí trên gương mặt lấm bẩn. Cô ta mặc cái áo phòng thí nghiệm lấm máu, mang theo khẩu handgun đang chĩa xuống sàn; rõ ràng cô ta chắc chắn nơi liên lạc của cô ta an toàn. Nicholai không cho cô ta cơ hội phản ứng với sự hiện diện của hắn.
“Bỏ vũ khí xuống và bước khỏi cái thang máy. Mau lên. ”
Cô ta là một người điềm tĩnh, hắn phải công nhận vậy. Ngoại trừ đôi mắt hơi mở to, không dấu hiệu hoảng sợ nào lộ trên gương mặt cân đối. Cô ta làm theo lời hắn, khẩu súng rơi xụống kêu lách cách khi cô uể oải bước vài bước vào phòng.
“Có báo cáo gì mới không Janice?”
Cô ta nhìn hắn chăm chú, ánh mắt nâu nhạt tìm kiếm ánh mắt hắn, cô khoanh tay lại. “Anh là một Watchdog”, cô nói. Đó không phải là câu hỏi.
Nicholai gật: “Bỏ hết mọi thứ trong túi cô lên bàn đi tiến sĩ. Chậm thôi. ”
Thomlinson mỉm cười: “Và nếu tôi không bỏ ra thì sao?”. Giọng cô ta khàn khàn, bí ẩn, đầy cám dỗ. “Liệu anh có…chiếm đoạt nó từ tôi không?”
Nicholai nghĩ vài giây về điều cô ta đang ám chỉ rồi bóp cò, xóa đi nụ cười đáng yêu bằng loạt đạn bất ngờ. Thật sự, hắn không có thời gian chơi trò đó; đáng ra hắn phải bắn cô ta lúc vừa gặp, như thế hắn đã không bị cám dỗ. Hơn nữa, chân hắn lạnh và ướt, hắn ghét điều đó; không có gì làm một người đàn ông khốn khổ hơn là đôi giày ướt.
“Dù sao cũng thật xấu hổ”; cô ta thuộc mẫu người hắn thích, cao, có những đường cong và rõ ràng thông minh. Hắn bước tới cơ thể đổ sụp của cô ta, lấy cái đĩa từ túi, không nhìn vào gương mặt đã bị lẫn lộn xương và máu, tự nhủ lòng đây là công việc.
“Chỉ còn bốn người”. Nicholai nhét cái đĩa vào túi plastic, khóa lại rồi bỏ vào trong túi. Vẫn còn thời gian để xem qua nội dung nó sau, một khi hắn thu thập tất cả.
Hắn bật máy lên, mở bản đồ hệ thống cống ngầm, mặt cau có xác định lối đi tiếp theo. Ít nhất thêm nửa dặm mò mẫm trong bóng tối trước khi lên được phía trên. Hắn liếc nhìn tiến sĩ Thomlinson lần nữa và thở dài; có lẽ hắn đã phạm sai lầm. Đùa giỡn với cô ta một chút có thể làm nóng người hắn…mặc dù hắn ghét phải giết phụ nữ sau khi đã vui vẻ với họ dù chỉ một chút; lần cuối cùng, hắn nếm cảm giác hối tiếc thật sự.
Không sao cả. Cô ta đã chết, hắn có thông tin, tới lúc phải tiếp tục. Còn bốn người, sau đó hắn có thể không nghĩ tới làm việc trong quãng đời cực kì giàu có còn lại của hắn, tập trung với những thú vui mà những tên nghèo rớt mồng tơi chỉ có thể mơ tới.
Carlos biết anh đang ở gần thôi. Từ khu vực gần tòa soạn báo, chỗ mọi bảng hiệu đường đều bắt đầu với chữ phía bắc, cuối cùng anh lạc trong dãy hẻm dẫn tới phía đông – nơi hẳn là khu mua sắm Trent nhắc đến.
“Ông ta nói khu mua sắm, phía đông bắc…vậy cái nhà hát đâu? Ông ta cũng nói gì đó về đài phun nước, có không nhỉ?”
Carlos đứng trước tiệm cắt tóc bít kín ở chỗ giao nhau hai con hẻm, không còn biết phải đi lối nào. Không có bảng chỉ đường xung quanh, hoàng hôn đã tắt; bầu trời tối như mực và chỉ còn 10 phút là tới 19h thời hạn cuối cùng, vì cái sai lầm ngớ ngẩn lúc đầu đã dẫn anh đi ngược về khu công nghiệp thành phố - theo lời Trent, thì đây cũng không thể gọi là thành phố. Mười phút…sau đó là gì? Khi tìm được quán Grill 13 vô danh đó, chuyện gì sẽ xảy ra? Trent có nói gì về giúp đỡ…vậy nếu anh lỡ giờ hẹn, Trent có làm được gì giúp anh không?
“Quẹo trái có thể dẫn về tòa soạn báo”, anh nghĩ thế - “hay nó ở sau lưng? Đi thẳng tới là đường cụt với một cánh cửa anh chưa thử mở, cứ thử bắn nó xem sao…”
Anh không thấy nó đang đến, nhưng nghe thấy.
Vừa tiến lên một bước, cánh cửa sau lưng bật tung – thứ đó nhanh tới nỗi khi nó với tới anh vẫn còn đang quay lại chĩa khẩu súng về cánh cửa.
“Cái…”
Một làn sóng hôi thối, ấn tượng với bộ móng đen bóng, cơ thể rắn chắc, sọc vằn như bộ xương ngoài vài loài côn trùng khổng lồ…
…và cái gì đó xé không khí cách mặt anh vài inches, đã trúng vào mặt nếu anh không bước lùi lại. Anh vấp ngã, kinh hoàng nhìn thứ gì đó bay qua mặt, nhanh nhẹn nhảy qua bức tường bên phải, tiếp tục chạy, báng lên những viên gạch theo từng bước phi nước đại. Kinh hoàng, Carlos ngoái theo, lưng nằm sóng soài, nhìn nó lẹ làng xoay quanh ba trong số chân rồi nhảy xuống đất. Anh có thể cứ đợi nó đến, không tin vào mắt mình cả khi có dùng một trong sáu cái cẳng dài sắc như dao chém vào cuống họng, trừ việc nó la hét – tiếng kêu rống hoan hỉ thắng lợi phát ra từ gương mặt cong, sưng phồng tàn bạo của nó đủ khiến anh nhúc nhích.
Trong chớp mắt, Carlos lăn thành thế cúi, nổ súng vào con vật đang kêu gào, chạy lung tung đó, không nhận ra chính mình cũng đang thét, tiếng la khe khẽ, cáu bẳn của nỗi kinh hoàng và sự hoài nghi. Con quái loạng choạng theo từng viên đạn xuyên qua thớ thịt giòn của nó, chân nó quật điên cường, tiếng rít chuyển thành tiếng rú đau đớn khủng khiếp. Carlos cứ bắn, rưới vào con sinh vật hàng chục viên kim loại chết người nóng hổi, vẫn tiếp tục cả sau khi nó đổ gục, chỉ chuyển động vì những viên đạn giật thân hình khập khiễng của nó. Anh biết nó đã chết nhưng không dừng lại được cho tới lúc khẩu M16 cạn sạch, con hẻm im như tờ ngoài hơi thở đau đớn của chính mình. Dựa lưng vào tường, đập một băng mới vào súng, cố hiểu chuyện quái gì vừa xảy ra.
Sau cùng anh cũng hoàn hồn trở lại tiến về con vật đã chết – nó đã chết; ngay cả một con bọ sáu chân, leo tường bự bằng con người cũng chết khi não nó chảy ra khỏi sọ. Đó là sự thật anh có thể bấu víu vào trong cảnh điên loạn này.
“Chết queo”, anh nói, nhìn xuống con vật máu me, nhăn nhúm, trong một giây, anh cảm thấy phần nào đó trong tâm trí muốn thu vào, ngăn anh nhìn. Zombie đã đủ tệ, anh cuối cùng đã từ chối chấp nhận sự thật Raccoon tràn ngập những xác chết biết đi; chúng chỉ bị bệnh, căn bệnh ăn thịt người anh đọc được, vì không có zombie trên đời ngoại trừ trong phim ảnh. Cũng như không có quái vật thật sự, không có những con bọ giết người đầy móng đi trên tường, gào thét như nó đã từng…
“Wo hay piri”, anh thì thầm châm ngôn một thời, lần này nói như khẩn cầu, tâm trí nghĩ theo như một loại kinh cầu tuyệt vọng, Đừng cố quá, thư giãn đi, bình tĩnh nào. Sau một lúc nó bắt đầu tác dụng; nhịp tim đập chậm gần bằng bình thường, bắt đầu cảm thấy như một con người trở lại, không phải một con thú hoảng loạn, ngu đần.
“Vậy, có quái vật trong thành phố Raccoon”. Không phải là điều bất ngờ sau một ngày anh đã trải qua; hơn nữa, chúng cũng chết như nhưng sinh vật khác, không phải sao? Anh sẽ không sống sót nổi nếu quên điều đó, anh đã đi quá xa để đầu hàng bây giờ.
Nghĩ thế, Carlos quay lưng lại con quái rồi đi xuống con hẻm, ép mình không ngoái lại. Nó đã chết, anh vẫn sống, có nhiều khả năng còn cả đống tụi nó ngoài kia.
“Trent là lối thoát duy nhất cho mình, giờ mình còn…khốn kiếp! Ba phút, anh còn chỉ còn ba phút chết tiệt”.
Carlos chạy, lên vài bậc dẫn tới cửa cuối con hẻm và chạy qua – thấy mình đang đứng trong căn bếp sáng sủa rộng rãi. Căn bếp trong nhà hàng.
Nhìn xung quanh; không có ai, yên ắng nếu không kể tiếng xì nhẹ từ bình gas bự đang dựa vào tường. Anh hít một hơi sâu nhưng không ngửi thấy gì; chắc có gì khác nữa-
-“và mình không thể ra khỏi đây nếu đó là gas độc. Hẳn là chỗ này, nơi ông ta bảo mình đến”.
Anh bước khỏi gian bếp, qua những bàn kim loại sáng bóng và những cái bếp, hướng ra khu vực phòng ăn. Trên một cái bàn có tờ menu, chữ GRILL 13 viết bằng chữ vàng ở mặt trước. Thật mệt mỏi, anh cảm thấy yên lòng làm sao; chỉ trong vài giờ, Trent đã chuyển từ một người lạ mặt kì quái thành người bạn tốt nhất thế giới.
“Mình làm được rồi, ông ta nói có thể giúp – có thể đội cứu hộ đã lên đường, hay ông ta sắp xếp cho mình được đón ở đây…hoặc có vũ khí ở đằng trước, không tốt như được di tản nhưng mình sẽ lấy cái nào lấy được”.
Bức tường giữa bếp và phòng ăn có khoảng trống, cái quầy chỗ đầu bếp để thức ăn lên. Carlos có thể thấy cái nhà hàng nhỏ hơi tối hơn không có ai cả, dù vậy anh mất một lúc để kiểm tra chắc chắn; ánh sáng nhảy múa từ một cái đèn dầu le lói đung đưa trên cái buồng da xếp dọc theo tường, tỏa ra những cái bóng đáng sợ.
Anh bước qua quầy phục vụ hướng vào phòng, tình cờ ngửi thấy mùi đồ ăn chiên trong không khí mát lạnh đồng thời nhìn quanh, tìm kiếm. Anh không rõ mình trông đợi điều gì, nhưng chắc chắn không thấy nó – không bao thư chưa đánh dấu trên bàn, không có gói hàng bí ẩn, không có người mặc áo choàng đang đợi. Cạnh cửa trước có buồng điện thoại; Carlos bước tới nhấc ống nghe lên, nó cũng im lặng như những điện thoại khác trong thành phố.
Kiểm tra đồng hồ lần thứ một ngàn trong những giờ qua, thấy đã là 1901, một phút quá 7 giờ, cơn giận trào lên cùng sự thất vọng, nhưng nó chỉ làm tăng nỗi sợ vô hình của anh. “Mình đơn độc, không ai biết mình ở đây và không ai có thể giúp mình”.
“Tôi tới rồi đây”, anh nói, quay mặt vào căn phòng trống, cao giọng, “Tôi đã làm được, tôi tới đây đúng giờ và chết tiệt, ông ở đâu vậy hả?”
Như bắt được tín hiệu, điện thoại réo vang, âm thanh chói tai làm anh nhảy dựng lên, Carlos dò dẫm tìm cái ống nghe, tim nở ra trong lồng ngực, đôi chân run lên vì hi vọng.
“Trent? Là ông phải không?”
Ngừng một lục, giọng êm ái, du dương của Trent lọt vào tai anh: “Hola, cậu Oliveira! Tôi rất mừng khi nghe giọng cậu!”
“Trời, chưa bằng một nửa tôi mừng khi nghe giọng ông đâu”, Carlos ngồi bệt xuống tựa vào tường, nắm chặt ống nghe.
“Chuyện này thật kinh khủng, amigo, mọi người đã chết, ngoài kia có những thứ - quái vật, Trent à. Ông đưa tôi ra khỏi đây được không? Nói với tôi là ông có thể đưa tôi ra khỏi đây đi!”
Một khoảng lặng nữa, Trent thở dài, âm thanh nặng nhọc. Carlos nhắm mắt lại, đoán chắc ông ta sẽ nói gì.
“Tôi rất xin lỗi, nhưng chuyện đó hoàn toàn ngoài khả năng. Điều tôi có thể làm là cho cậu biết thông tin…còn sống sót là việc của cậu. Tôi e mọi thứ sẽ tệ, tệ hơn nhiều trước khi nó chuyển biến tốt hơn. ”
Carlos hít hơi sâu, gật đầu với chính mình, biết đây là điều anh đã trông đợi suốt quãng đường. Anh phải tự sinh tồn.
“Được rồi”, anh mở mắt ra, đứng thẳng dậy gật đầu lần nữa. “Nói đi. ”