Chương 9
Chú thích, mô tả về vụ phạm tội đã được báo cáo -29-087:
“Hai trong mười hai viên ngọc giống nhau là những phần cần thiết hệ thống “khóa đồng hồ” tại cổng chính được trang hoàng của khu công nghiệp liên hợp thành phố đã bị mất, vào khoảng từ (theo ước tính) 2100 giờ hôm qua (24 tháng 9) tới 0500 giờ sáng nay. Với việc nhiều cửa hàng đã bít kín cửa như hiện nay, những tên cướp đã làm xấu đi bộ mặt thành phố, đang mưu toan lấy những gì chúng tin là giá trị. Viên sĩ quan này tin trằng tên trộm nghĩ những viên ngọc là thật, dừng lại sau khi đã lấy hai viên (một xanh dương, một xanh lá) khi hắn/ả nhận ra chúng chỉ là thủy tinh.
Cánh cổng (còn gọi là cổng “Tòa Thị Chính”) là lối duy nhất trong hàng ngàn lối ra vào dẫn đến khu công nghiệp liên hợp. Cánh cổng giờ bị khóa vì thiết kế cầu kì của nó (theo ý kiến viên sĩ quan này là lố bịch), cần toàn bộ viên ngọc để mở cửa. Tới khi bộ giao thông thành phố phá hủy cánh cổng, hoặc tới khi hai viên ngọc được tìm ra và gắn vào lại, lối đi này sẽ vẫn bị khóa. Vì sự thiếu nhân lự thời điểm này, không còn lựa chọn nào khác phải hoãn cuộc điều tra vụ án này lại.
Sĩ quan báo cáo Marvin Branagh”
Thông tin thêm, vụ 29-087, M. Branagh 26 tháng 9.
“Một trong hai viên ngọc (xanh dương) đã lọt vào tòa nhà RPD. Vào 2000 giờ. Bill Hansen, người chủ quá cố nhà hàng Grill 13, hình như ông ta mang theo viên ngọc giả khi đến đây tìm chỗ trú chiều nay. Ông Hansen chết sau khi đến không lâu, bị giết bởi loạt đạn cảnh sát sau khi lộ ra ảnh hưởng căn bệnh ăn thịt người. Viên ngọc được tìm thấy trên người ông ta, mặc dù tôi lẫn viên sĩ quan đều không biết nếu ông ta đã lấy cắp nó hoặc chỗ viên ngọc còn lại.
Thành phố giờ ở tình trạng thiết quân luật, sẽ không ai đi tìm viên ngọc thứ hai hay đặt viên này về chỗ cũ – nhưng với những con đường bao quanh khu công nghiệp liên hợp trở nên không đi được, cần tới những viên ngọc này sẽ trở nên thích đáng.
Ghi chú cá nhân:đây sẽ là bản báo cáo cuối cùng của tôi cho tới khi cơn khủng hoảng hiện thời qua đi. Công việc văn phòng có vẻ - hiện thời, nhu cầu những văn bản báo cáo những vụ phạm tội xếp thứ hai sau việc thi hành tình trạng thiết quân luật(áp dụng luật quân sự lên nơi đang có biến loạn), cũng như việc tôi tin mình là người duy nhất làm việc này.
Marvin Branagh, RPD”
Jill bỏ bản báo cáo đánh máy cùng phần phụ lục viết bằng tay vào tủ bằng chứng, buồn rầu không biết liệu Marvin có còn sống;chắc không có đâu, một suy nghĩ chán nản: “Anh ta là một trong đám sĩ quan giỏi nhất ở RPD, luôn tử tế không quên xử xự như một tay nhà nghề. Chính nghĩa tới phút cuối, một chuyên gia thật sự. Umbrella chết tiệt”.
Cô cho tay vào ngăn kéo lấy ra mảnh thủy tinh xanh hình kim cương. Phần còn lại phòng lưu giữ chứng cứ rối tung cả, mấy ngăn tủ khóa không chứa vũ khí nào hữu dụng;tất nhiên, cô không phải là người duy nhất nghĩ tới việc kiểm tra nó tìm súng và đạn dược. Viên ngọc, mặt khác…
Marvin đã đúng về những con đường bị chặn xung quanh cổng tòa thị chính;cô đã thử trèo vào khu vực đó một lần, thấy đa số trong đó đã bị chặn. Ở đó không có gì nhiều – cánh cổng mở ra khu vườn nhỏ với lối đi lát đá, một sự phô trương cho bức tượng cựu thị trưởng Michael Warren nhàm chán. Đi qua đó là tòa thị chính, không được sử dụng nhiều lắm vì tòa án mới đã được xây ở khu phố trên, một vài con đường dẫn tới phía tây và bắc – một vài bãi đậu xe và một cửa hàng tự động nếu đi theo phía bắc rồi sang phía tây…
“Khốn thật, cái xe điện!”
Sao cô không nghĩ tới nó trước kia chứ? Jill thấy một luồng điện phấn khích, ngừng lại đôi chút vì muốn tự đập vào đầu mình. Cô hoàn toàn quên bẵng nó. Lộ trình tham quan của chuyến xe lửa hai toa kiểu cổ dùng cho du lịch, thành phố chỉ cho chạy vào dịp hè nhưng nó đi suốt tới ngoại ô phía tây, qua công viên thành phố và vài khu phố xa hoa. Đằng đó cũng có một khu vực được cho là bỏ hoang của Umbrella, có thể vẫn còn xe dùng được và những con đường trống. Trong trường hợp nó vẫn còn chạy, xe điện là lối dễ nhất thoát ra ngoài thành phố.
“Với toàn bộ những rào chắn, cách duy nhất tới được chỗ nó là qua cánh cổng khóa – mà mình chỉ có một trong hai viên ngọc”.
Cô không có trang thiết bị để phá sập cái cổng nặng nề quá khổ một mình…nhưng báo cáo của Marvin nói rằng Bill Hansen đã từng có viên xanh dương, nhà hàng của ông ta chỉ cách vài 3 hay 4 dãy phố. Không có cơ sở kết luận ông ta cũng có viên xanh lá, hoặc nó ở quán Grill, nhưng dù sao cũng đáng để kiểm tra. Nếu không đúng cũng chẳng thể tồi tệ hơn nữa – nếu tìm được, cô có thể ra khỏi thành phố sớm hơn cô hi vọng. Với tên Nemesis chạy rong ngoài kia, không lúc nào là đủ sớm. Quyết định vậy đi. Jill quay người đi tới cánh cổng dẫn ra sảnh, tuồn viên ngọc xanh vào túi. Cô muốn kiếm tra phòng tối của RPD trước khi rời đi, để xem có tìm được cái áo vest của viên nhiếp ảnh nào không; không có đồ nạp đạn nhanh cho khẩu Colt, và cô muốn thêm vài cái túi đựng mấy viên đạn lẻ. Khi định làm thế, cô nghĩ mình nên để lại khẩu shotgun. Cô móc cái đai đeo qua vai lấy từ một viên cảnh sát quá cố, nên mang nó theo cũng không đến nỗi, nhưng không có đạn – và với hỏa lực thêm khẩu. 357 – cô không thấy lợi khi mang nó theo nữa…
Bước vào sảnh rồi quẹo trái, cố không nhìn cái xác sụm xuống cái cửa sổ hướng nam. Đó là một cô gái trẻ nhiễm virus cô đã bắn từ cầu thang lầu hai, ở quay góc quanh, và cô khá chắc mình biết cô gái đó – nữ thư kí/tiếp tân làm việc ở bàn trước vào cuối tuần, Mary gì đó. Phòng tối đối diện khoảng trống dưới cầu thang;cô phải đi qua cái xác vài bước, nhưng cô nghĩ có thể tránh nhìn quá gần nếu…
XOẢNG!
Hai cánh cửa sổ nổ tung, cơn mưa kính văng đầy lên xác nữ tiếp tân, vài mảnh chém vào chân Jill. Cùng lúc đó, một đống đen khổng lồ phóng vào, to hơn người thường, to cỡ -
-“sát thủ của STARS”-
Đó là tất cả những gì cô kịp nghĩ. Jill phóng ngược về phía cô đến, tông thẳng vô phòng lưu giữ chứng cứ, trong khi ở phía sau là những tiếng kính bị đạp bể khi nó đứng dậy, nghe tiếng gào tên mục tiêu duy nhất của nó, “Ssstaarss”
Cô chạy, chụp khẩu revolver nặng trịch bên dưới túi hông, băng qua phòng lưu giữ tới cánh cửa đó, tiếp tục vào phòng của nhóm tuần tra. Quẹo trái ngay lúc vào và những chiếc bàn mờ lùi về sau, ghế và kệ sách và một cái bàn lật úp loang lổ máu và chất lỏng của ít nhất 2 cớm, cái xác sóng xoài của họ trở thành vật cản đường cô, Jill nhảy qua những đôi chân vặn vẹo, nghe tiếng cửa mở, không, vỡ nát đằng sau, tiếng gỗ gãy và mảnh vụn tung tóe vẫn không nhấn chìm cơn giận dữ của Nemesis.
“Mau mau mau hơn nữa…”
Cô tông trúng cánh của khi đang chạy, không màng tới cơn đau lờ mờ lan dần trên cái vai bầm tím, ngoặc sang phải khi vừa đâm vào tiền sảnh
Shhhhhhhhh-BUUUÙUM!
Một ánh chớp sáng lòa và khói phọt qua, đục một lỗ nham nhở cháy trên sàn cách cô chưa đầy 3 bộ. Từng mảnh hoa cương đen và gạch nền nám đen bay lên, nổ tung lên trong một mớ tiếng ồn và sức nóng.
“Lạy Chúa, nó có vũ khí!”
Cô chạy nhanh lên, theo con dốc xuống tiền sảnh dưới, nhớ ra cô đã khóa chốt cửa trước, nhận ra điều đó như nắm đấm thẳng vào bụng. Cô sẽ không bao giờ mở kịp nó cả, không có cơ hội nào…
…và BÙUM, một luồng hơi nữa từ một thứ có thể là súng phóng lựu hay bự hơn, đủ gần để cô có thể thấy không khí như xe ra kề bên tai phải, có thể nghe tiếng rít từ tốc độ kinh hồn ngay trước khi cánh cổng bật tung. Chúng dính ẻo lả vào bức tường, lắc lư, vẫn cháy âm ỉ khi cô chạy qua vào màn đêm đen lạnh lẽo.
“Ssstaaarrrsss!”
“Gần, quá gần”. Jill theo đánh liều nhảy qua bên, bắn khỏi sàn, lờ mờ nhận ra xác Brad không còn đó nữa mà cô cũng không quan tâm. Ngay lúc cô đáp xuống, Nemesis bay ngang qua cô, lăn qua nơi cô vừa đứng cách đó vài tích tắc. Đà chạy của nó đã khiến nó văng xa ra, nó nhanh nhẹn nhưng quá nặng để dừng lại, kích thước quái vật của nó cho cô đủ thời gian cần thiết. Một tiếng ré lên và cô đã qua được cánh cổng, đóng sầm lại, rút khẩu shotgun từ sau lưng.
Cô quay người chèn khẩu shotgun vào tay kéo cửa, chúng vỡ rạn trước khi cô kịp buông tay, đủ mạnh để cô nhận ra cánh cổng sẽ không giữ được lâu. Bên kia cổng, Nemesis thét trong cơn điên loài thú, âm thanh ma quái từ cơn khát máu mạnh đến mức Jill run bắn lên. Nó đang gào lên vì cô, như trong cơn ác mộng đó, nó muốn cô phải chết.
Quay người, cô chạy, tiếng tru nhạt dần vào màn đêm sau lưng, cô vẫn chạy và chạy.
Lúc Nicholai thấy Mikhail Victor là lúc hắn biết phải giết người đó. Nói nghiêm túc thì không có lý do nào cả, nhưng cơ hội quá hấp dẫn không nên bỏ qua. Bằng may mắn nào đó, chỉ huy trung đội D đã sống sót, một vinh dự mà hắn ta không đáng được hưởng.
“Chúng ta sẽ xem sét về việc đó…”
Nicholai đang thấy khoan khoái;hắn đã đi trước kế hoạch tự đặt ra, và phần còn lại chuyến hành trình qua cống ngầm cũng suôn sẻ. Kế tiếp là bệnh viện, nơi hắn có thể đến nhanh chóng nếu dùng xe cáp ở Lonsdale Yard;hắn có dư thời gian để thư giãn một chút, lấy lại sức sau cuộc truy tìm. Trèo ngược lên thành phố, thấy Mikhail bên kia đường từ mái một tòa nhà Umbrella – vị trí bắn tỉa hoàn hảo – để tưởng thưởng cho cố gắng của hắn. Mikhail sẽ không bao giờ biết cái gì đã bắn trúng mình.
Viên chỉ huy ở dưới hai tầng, lưng tựa vào tường căn lều bãi phế liệu vừa thay băng đạn. Ngọn đèn an ninh, tia sáng lập lòe theo chuyển động thất thường của những côn trùng ban đêm, đã rọi rõ vị trí của hắn đồng thời làm hắn không tài nào thấy được kẻ hạ sát hắn.
“Mày không thể có tất cả;cái chết của hắn cũng đủ”.
Nicholai mỉm cười nâng khẩu M16 lên, tận hưởng khoảnh khắc đó. Cơn gió đêm mát lạnh làm xù tóc hắn cùng lúc hắn nhìn kĩ con mồi, để ý không chút thỏa mãn nỗi sợ trên nét mặt Mikhail, gương mặt khó hiểu. Bắn vào đầu ư? Không;có khả năng Mikhail đã bị nhiễm, Nicholai không muốn lỡ màn sống dậy. Hắn cũng có dư dả thời gian chứng kiến. Hắn hạ thấp súng xuống nhắm vào đầu gối Mikhail. Rất đau…nhưng hắn vẫn có thể dùng tay bắn loạn xạ vào màn đêm;Nicholai không muốn bị bắn trúng.
Mikhail đã nạp đạn xong và đang nhìn quanh như muốn quyết định nên đi đâu. Nicholai ngắm rồi bắn, một phát duy nhất, cực kỳ thỏa mãn với quyết định của hắn lúc viên chỉ huy lùi lại, ôm bụng và đột nhiên, Mikhail biến mất, theo góc tòa nhà vào trong màn đêm. Nicholai có thể nghe tiếng sỏi kêu răng rắc nhỏ dần.
Hắn rủa thầm, nghiến chặt răng. Hắn muốn thấy tên đó quằn quại, đau đớn vì vết thương có thể gây tử vong. Có vẻ phản ứng của Mikhail không tệ như hắn tưởng.
“Vậy ra hắn chọn chết trong bóng tối đâu đó thay vì nơi mình có thể thấy hắn. Điều đó thì nghĩa lí gì chứ? Chẳng qua mình không có gì làm để giết thời gian cả…”
“Vẫn không được. Mikhail bị thương nặng, còn Nicholai muốn nhìn hắn chết. Chỉ mất vài phút để tìm dấu máu rồi lần theo hắn – một đứa con nít cũng làm được”.
Nicholai cười ranh mãnh: “Và khi mình tìm thấy hắn, mình sẽ đề nghị giúp đỡ, đóng vai người đồng đội quan tâm – ai làm thế này với anh, Mikhail? Nào, để tôi giúp anh…”
Hắn mau chóng hướng về cầu thang, tưởng tượng khuôn mặt Mikhail khi nhận ra ai đã bắn hắn, khi hắn hiểu ra thất bại của hắn ở cương vị người chỉ huy và một người đàn ông.
Nicholai không biết hắn đã làm gì mà được hưởng hạnh phúc như thế;cho tới giờ, đây là đêm tuyệt nhất trong đời hắn.
Đường dây bị ngắt ngay khi cuộc nói chuyện của họ kết thúc, Carlos bước tới bàn ngồi xuống, nghĩ kĩ về những gì Trent đã nói. Nếu những gì ông ta nói là thật – Carlos tin vậy – thì Umbrella sẽ có rất nhiều thứ phải trả lời.
“Sao ông nói với tôi toàn bộ chuyện này?”, Carlos đã hỏi khi sắp kết thúc cuộc nói chuyện, đầu đang xoay mòng mọng. “Sao lại là tôi?”
“Vì tôi đã xem lí lịch của anh”, Trent trả lời. “Carlos Oliveira, lính đánh thuê – ngoại trừ cậu luônc chiến đấu vì lẽ phải, luôn luôn ở bên phe bị đàn áp và bị ngược đãi. Hai lần cậu liều mạng làm sát thủ, cả hai lần đều thành công – một lần là tên trùm ma túy bạo ngược tên còn lại là kẻ viết sách khiêu dâm trẻ em, nếu tôi nhớ đúng. Và cậu không bao giờ hại dân thường dù chỉ một lần. Umbrella có dính líu đến những cuộc tập huấn cực kỳ trái đạo đức, cậu Oliveira, và cậu chính xác là loại người nên hành động để dừng họ lại”.
Theo Trent, T-virus hay G-virus của Umbrella là hai loại khác nhau – được tạo ra và sử dụng lên những con quái vật tự tạo biến chúng thành vũ khí sống. Khi con người tiếp xúc với chúng, họ nhiễm căn bệnh ăn thịt người. Và Trent nói lãnh đạo U. B. C. S biết họ đang gửi người của họ tới đâu, có khả năng năng là cố ý làm vậy – tất cả trên danh nghĩa nghiên cứu.
“Tai mắt Umbrella ở khắp mọi nơi”, Trent từng nói vậy. “Như tôi đã nói trước đây, cẩn thận với ai mà cậu tin tưởng. Thật lòng thì không ai đáng tin cả. ”
Carlos đột ngột đứng dậy đi về phía bếp, lạc trong những suy nghĩ. Trent không chịu nói lí do ông ta phá hoại ngầm Umbrella, dù Carlos ngạc nhiên khi Trent cũng làm việc cho họ trên lãnh vực nào đó;điều đó giải thích tại sao ông ta bí mật vậy.
“Ông ta đang thận trọng, che giấu thân phận, nhưng sao ông ta biết nhiều thế? Những gì ông ta nói với mình…”
Sự thật rối tung, vài điều có vẻ hoàn toàn độc đoán – “trong phòng lạnh dưới nhà hàng có viên ngọc xanh lá giả. Trent nói nó có một cặp, nhưng không cho biết viên còn lại ở đâu hay tại sao chúng quan trọng đến vậy”.
“Hãy chắc là chúng có đủ bộ”, Trent nói thế - làm như Carlos sẽ tình cờ tìm được viên còn lại. “Khi cậu tìm được viên xanh dương, cậu sẽ có được lời giải thích. ”
Ngoài điều có vẻ vô dụng ngớ ngẩn đó, Trent cho anh biết Umbrella giữ hai trực thăng tại nhà máy xử lí nước thải bỏ hoang phía tây và phía bắc thành phố. Có lẽ đó là thông tin hữu ích nhất, Trent có nói tại bệnh viện thành phố có vaccine đang nghiên cứu, tuy nó vẫn chưa được chế tạo, có ít nhất một mẫu ở đó.
“Mặc dù có khả năng bệnh viện sẽ không còn ở đó lâu nữa”, câu nói đó khiến Carlos tự hỏi làm cách nào Trent biết được những thông tin đó.
“Chuyện gì sẽ xảy ra với nó? Và làm cách nào Trent biết được?”
Trent hình như nghĩ sự sinh tồn của Carlos là quan trọng;ông ta nghĩ Carlos sẽ là một phần quan trọng trong cuộc chiến chống lại Umbrella, nhưng Carlos vẫn không biết tại sao, hay có chắc mình muốn gia nhập không. Lúc này, anh chỉ muốn ra khỏi thành phố…dù vì lí do gì Trent đã quyết định cung cấp thông tin, Carlos cùng mừng vì sự giúp đỡ.
“Mặc dù thêm một chút nữa sẽ tốt hơn – như chìa khóa xe bọc thép chẳng hạn, hay thứ gì đó để chống lại bọn quái vật”.
Carlos đứng trong nhà bếp, nhìn xuống cái nắp dáng vẻ nặng nề, thứ hình như che lấp cầu thang dẫn xuống tầm hầm. Trent có nói có thể sẽ có nhiều vũ khí hơn ở tháp đồng hồ, không cách xa bệnh viện lắm;cái đó cộng thêm chút ít về trực thăng Umbrella ở phía bắc cái tháp với bệnh viện, chắc chắn sẽ có ích…
“Nhưng tại sao lại để mình tới đây nếu mình quan trọng như vậy chứ? Ông ta có thể ngăn mình lúc đang trên đường tới văn phòng mà”.
Rất nhiều điều không rõ ràng, Carlos sẵn sàng cược là Trent chưa nói hết mọi chuyện với anh. Không còn lựa chọn nào ngoài tin tưởng ông ta chút đỉnh, nhưng anh sẽ phải rất thận trọng khi dựa vào thông tin của Trent.
Carlos cúi xuống cạnh lối vào đường hầm, nắm tay cầm nắp kéo lên. Nó nặng nhưng anh có thể xoay sở được, ngả người ra sau dùng chân làm đòn bẩy. Trừ khi đầu bếp là tay lực sĩ, hẳn có cái xà beng quanh đây.
Cửa trước nhà hàng ở ra rồi đóng lại. Carlos nhẹ nhàng hẩy cái nắp sang một bên rồi quay lại, vẫn giữ tư thế cúi, nhắm khẩu M16 hướng lối vào phòng ăn. Anh không nghĩ bọn zombie cộng tác với nhau mà mở cửa, nhưng cũng không biết bọn quái vật làm được gì, hay ai khác có thể đi lang thang trên những con đường thành phố.
Những bước chân chậm rãi rón rén di chuyển tới nhà bếp. Carlos nín thở, nghĩ tới Trent, đột nhiên không biết liệu ông ta có sắp đặt…
…và điều cuối cùng anh trông chờ là thấy khẩu revolver. 357 ló ra ở góc, cầm bởi một phụ nữ trẻ quyến rũ với vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng, cô ta bước nhanh vào hạ thấp người xuống và chĩa vào Carlos trước khi anh kịp chớp mắt.
Trong một lúc, họ nhìn nhau chằm chằm, không ai cử động, Carlos đọc thấy trong mắt người phụ nữ cô ta sẽ không ngần ngại bắn anh nếu cần thiết. Dù cũng cảm thấy gần như vậy, anh quyết định tốt nhất là tự giới thiệu mình.
“Tôi tên Carlos”, anh nói bằng giọng đều đều. “Tôi không phải zombie. Thoải mái đi, huh?”
Cô gái nhìn anh thêm một lúc, chậm rãi gật đầu, hạ thấp khẩu revolver. Carlos bỏ tay khỏi cò khẩu súng rồi cũng làm vậy và họ đứng thẳng dậy, di chuyển thận trọng.
“Jill Valentine”, cô nói, hình như định nói gì thêm khi cửa sau nhà hàng bật tung, âm thanh rền vang từ yết hầu gần như tiếng thét làm tóc gáy Carlos dựng lên.
“Sstaarrsss!”, nó thét bất kì cái gì nữa, tiếng nó vang vọng khắp nhà hàng, từng bước chân khổng lồ nện thình thịch về phía họ, không ngừng nghỉ và kiên định.
Chú thích, mô tả về vụ phạm tội đã được báo cáo -29-087:
“Hai trong mười hai viên ngọc giống nhau là những phần cần thiết hệ thống “khóa đồng hồ” tại cổng chính được trang hoàng của khu công nghiệp liên hợp thành phố đã bị mất, vào khoảng từ (theo ước tính) 2100 giờ hôm qua (24 tháng 9) tới 0500 giờ sáng nay. Với việc nhiều cửa hàng đã bít kín cửa như hiện nay, những tên cướp đã làm xấu đi bộ mặt thành phố, đang mưu toan lấy những gì chúng tin là giá trị. Viên sĩ quan này tin trằng tên trộm nghĩ những viên ngọc là thật, dừng lại sau khi đã lấy hai viên (một xanh dương, một xanh lá) khi hắn/ả nhận ra chúng chỉ là thủy tinh.
Cánh cổng (còn gọi là cổng “Tòa Thị Chính”) là lối duy nhất trong hàng ngàn lối ra vào dẫn đến khu công nghiệp liên hợp. Cánh cổng giờ bị khóa vì thiết kế cầu kì của nó (theo ý kiến viên sĩ quan này là lố bịch), cần toàn bộ viên ngọc để mở cửa. Tới khi bộ giao thông thành phố phá hủy cánh cổng, hoặc tới khi hai viên ngọc được tìm ra và gắn vào lại, lối đi này sẽ vẫn bị khóa. Vì sự thiếu nhân lự thời điểm này, không còn lựa chọn nào khác phải hoãn cuộc điều tra vụ án này lại.
Sĩ quan báo cáo Marvin Branagh”
Thông tin thêm, vụ 29-087, M. Branagh 26 tháng 9.
“Một trong hai viên ngọc (xanh dương) đã lọt vào tòa nhà RPD. Vào 2000 giờ. Bill Hansen, người chủ quá cố nhà hàng Grill 13, hình như ông ta mang theo viên ngọc giả khi đến đây tìm chỗ trú chiều nay. Ông Hansen chết sau khi đến không lâu, bị giết bởi loạt đạn cảnh sát sau khi lộ ra ảnh hưởng căn bệnh ăn thịt người. Viên ngọc được tìm thấy trên người ông ta, mặc dù tôi lẫn viên sĩ quan đều không biết nếu ông ta đã lấy cắp nó hoặc chỗ viên ngọc còn lại.
Thành phố giờ ở tình trạng thiết quân luật, sẽ không ai đi tìm viên ngọc thứ hai hay đặt viên này về chỗ cũ – nhưng với những con đường bao quanh khu công nghiệp liên hợp trở nên không đi được, cần tới những viên ngọc này sẽ trở nên thích đáng.
Ghi chú cá nhân:đây sẽ là bản báo cáo cuối cùng của tôi cho tới khi cơn khủng hoảng hiện thời qua đi. Công việc văn phòng có vẻ - hiện thời, nhu cầu những văn bản báo cáo những vụ phạm tội xếp thứ hai sau việc thi hành tình trạng thiết quân luật(áp dụng luật quân sự lên nơi đang có biến loạn), cũng như việc tôi tin mình là người duy nhất làm việc này.
Marvin Branagh, RPD”
Jill bỏ bản báo cáo đánh máy cùng phần phụ lục viết bằng tay vào tủ bằng chứng, buồn rầu không biết liệu Marvin có còn sống;chắc không có đâu, một suy nghĩ chán nản: “Anh ta là một trong đám sĩ quan giỏi nhất ở RPD, luôn tử tế không quên xử xự như một tay nhà nghề. Chính nghĩa tới phút cuối, một chuyên gia thật sự. Umbrella chết tiệt”.
Cô cho tay vào ngăn kéo lấy ra mảnh thủy tinh xanh hình kim cương. Phần còn lại phòng lưu giữ chứng cứ rối tung cả, mấy ngăn tủ khóa không chứa vũ khí nào hữu dụng;tất nhiên, cô không phải là người duy nhất nghĩ tới việc kiểm tra nó tìm súng và đạn dược. Viên ngọc, mặt khác…
Marvin đã đúng về những con đường bị chặn xung quanh cổng tòa thị chính;cô đã thử trèo vào khu vực đó một lần, thấy đa số trong đó đã bị chặn. Ở đó không có gì nhiều – cánh cổng mở ra khu vườn nhỏ với lối đi lát đá, một sự phô trương cho bức tượng cựu thị trưởng Michael Warren nhàm chán. Đi qua đó là tòa thị chính, không được sử dụng nhiều lắm vì tòa án mới đã được xây ở khu phố trên, một vài con đường dẫn tới phía tây và bắc – một vài bãi đậu xe và một cửa hàng tự động nếu đi theo phía bắc rồi sang phía tây…
“Khốn thật, cái xe điện!”
Sao cô không nghĩ tới nó trước kia chứ? Jill thấy một luồng điện phấn khích, ngừng lại đôi chút vì muốn tự đập vào đầu mình. Cô hoàn toàn quên bẵng nó. Lộ trình tham quan của chuyến xe lửa hai toa kiểu cổ dùng cho du lịch, thành phố chỉ cho chạy vào dịp hè nhưng nó đi suốt tới ngoại ô phía tây, qua công viên thành phố và vài khu phố xa hoa. Đằng đó cũng có một khu vực được cho là bỏ hoang của Umbrella, có thể vẫn còn xe dùng được và những con đường trống. Trong trường hợp nó vẫn còn chạy, xe điện là lối dễ nhất thoát ra ngoài thành phố.
“Với toàn bộ những rào chắn, cách duy nhất tới được chỗ nó là qua cánh cổng khóa – mà mình chỉ có một trong hai viên ngọc”.
Cô không có trang thiết bị để phá sập cái cổng nặng nề quá khổ một mình…nhưng báo cáo của Marvin nói rằng Bill Hansen đã từng có viên xanh dương, nhà hàng của ông ta chỉ cách vài 3 hay 4 dãy phố. Không có cơ sở kết luận ông ta cũng có viên xanh lá, hoặc nó ở quán Grill, nhưng dù sao cũng đáng để kiểm tra. Nếu không đúng cũng chẳng thể tồi tệ hơn nữa – nếu tìm được, cô có thể ra khỏi thành phố sớm hơn cô hi vọng. Với tên Nemesis chạy rong ngoài kia, không lúc nào là đủ sớm. Quyết định vậy đi. Jill quay người đi tới cánh cổng dẫn ra sảnh, tuồn viên ngọc xanh vào túi. Cô muốn kiếm tra phòng tối của RPD trước khi rời đi, để xem có tìm được cái áo vest của viên nhiếp ảnh nào không; không có đồ nạp đạn nhanh cho khẩu Colt, và cô muốn thêm vài cái túi đựng mấy viên đạn lẻ. Khi định làm thế, cô nghĩ mình nên để lại khẩu shotgun. Cô móc cái đai đeo qua vai lấy từ một viên cảnh sát quá cố, nên mang nó theo cũng không đến nỗi, nhưng không có đạn – và với hỏa lực thêm khẩu. 357 – cô không thấy lợi khi mang nó theo nữa…
Bước vào sảnh rồi quẹo trái, cố không nhìn cái xác sụm xuống cái cửa sổ hướng nam. Đó là một cô gái trẻ nhiễm virus cô đã bắn từ cầu thang lầu hai, ở quay góc quanh, và cô khá chắc mình biết cô gái đó – nữ thư kí/tiếp tân làm việc ở bàn trước vào cuối tuần, Mary gì đó. Phòng tối đối diện khoảng trống dưới cầu thang;cô phải đi qua cái xác vài bước, nhưng cô nghĩ có thể tránh nhìn quá gần nếu…
XOẢNG!
Hai cánh cửa sổ nổ tung, cơn mưa kính văng đầy lên xác nữ tiếp tân, vài mảnh chém vào chân Jill. Cùng lúc đó, một đống đen khổng lồ phóng vào, to hơn người thường, to cỡ -
-“sát thủ của STARS”-
Đó là tất cả những gì cô kịp nghĩ. Jill phóng ngược về phía cô đến, tông thẳng vô phòng lưu giữ chứng cứ, trong khi ở phía sau là những tiếng kính bị đạp bể khi nó đứng dậy, nghe tiếng gào tên mục tiêu duy nhất của nó, “Ssstaarss”
Cô chạy, chụp khẩu revolver nặng trịch bên dưới túi hông, băng qua phòng lưu giữ tới cánh cửa đó, tiếp tục vào phòng của nhóm tuần tra. Quẹo trái ngay lúc vào và những chiếc bàn mờ lùi về sau, ghế và kệ sách và một cái bàn lật úp loang lổ máu và chất lỏng của ít nhất 2 cớm, cái xác sóng xoài của họ trở thành vật cản đường cô, Jill nhảy qua những đôi chân vặn vẹo, nghe tiếng cửa mở, không, vỡ nát đằng sau, tiếng gỗ gãy và mảnh vụn tung tóe vẫn không nhấn chìm cơn giận dữ của Nemesis.
“Mau mau mau hơn nữa…”
Cô tông trúng cánh của khi đang chạy, không màng tới cơn đau lờ mờ lan dần trên cái vai bầm tím, ngoặc sang phải khi vừa đâm vào tiền sảnh
Shhhhhhhhh-BUUUÙUM!
Một ánh chớp sáng lòa và khói phọt qua, đục một lỗ nham nhở cháy trên sàn cách cô chưa đầy 3 bộ. Từng mảnh hoa cương đen và gạch nền nám đen bay lên, nổ tung lên trong một mớ tiếng ồn và sức nóng.
“Lạy Chúa, nó có vũ khí!”
Cô chạy nhanh lên, theo con dốc xuống tiền sảnh dưới, nhớ ra cô đã khóa chốt cửa trước, nhận ra điều đó như nắm đấm thẳng vào bụng. Cô sẽ không bao giờ mở kịp nó cả, không có cơ hội nào…
…và BÙUM, một luồng hơi nữa từ một thứ có thể là súng phóng lựu hay bự hơn, đủ gần để cô có thể thấy không khí như xe ra kề bên tai phải, có thể nghe tiếng rít từ tốc độ kinh hồn ngay trước khi cánh cổng bật tung. Chúng dính ẻo lả vào bức tường, lắc lư, vẫn cháy âm ỉ khi cô chạy qua vào màn đêm đen lạnh lẽo.
“Ssstaaarrrsss!”
“Gần, quá gần”. Jill theo đánh liều nhảy qua bên, bắn khỏi sàn, lờ mờ nhận ra xác Brad không còn đó nữa mà cô cũng không quan tâm. Ngay lúc cô đáp xuống, Nemesis bay ngang qua cô, lăn qua nơi cô vừa đứng cách đó vài tích tắc. Đà chạy của nó đã khiến nó văng xa ra, nó nhanh nhẹn nhưng quá nặng để dừng lại, kích thước quái vật của nó cho cô đủ thời gian cần thiết. Một tiếng ré lên và cô đã qua được cánh cổng, đóng sầm lại, rút khẩu shotgun từ sau lưng.
Cô quay người chèn khẩu shotgun vào tay kéo cửa, chúng vỡ rạn trước khi cô kịp buông tay, đủ mạnh để cô nhận ra cánh cổng sẽ không giữ được lâu. Bên kia cổng, Nemesis thét trong cơn điên loài thú, âm thanh ma quái từ cơn khát máu mạnh đến mức Jill run bắn lên. Nó đang gào lên vì cô, như trong cơn ác mộng đó, nó muốn cô phải chết.
Quay người, cô chạy, tiếng tru nhạt dần vào màn đêm sau lưng, cô vẫn chạy và chạy.
Lúc Nicholai thấy Mikhail Victor là lúc hắn biết phải giết người đó. Nói nghiêm túc thì không có lý do nào cả, nhưng cơ hội quá hấp dẫn không nên bỏ qua. Bằng may mắn nào đó, chỉ huy trung đội D đã sống sót, một vinh dự mà hắn ta không đáng được hưởng.
“Chúng ta sẽ xem sét về việc đó…”
Nicholai đang thấy khoan khoái;hắn đã đi trước kế hoạch tự đặt ra, và phần còn lại chuyến hành trình qua cống ngầm cũng suôn sẻ. Kế tiếp là bệnh viện, nơi hắn có thể đến nhanh chóng nếu dùng xe cáp ở Lonsdale Yard;hắn có dư thời gian để thư giãn một chút, lấy lại sức sau cuộc truy tìm. Trèo ngược lên thành phố, thấy Mikhail bên kia đường từ mái một tòa nhà Umbrella – vị trí bắn tỉa hoàn hảo – để tưởng thưởng cho cố gắng của hắn. Mikhail sẽ không bao giờ biết cái gì đã bắn trúng mình.
Viên chỉ huy ở dưới hai tầng, lưng tựa vào tường căn lều bãi phế liệu vừa thay băng đạn. Ngọn đèn an ninh, tia sáng lập lòe theo chuyển động thất thường của những côn trùng ban đêm, đã rọi rõ vị trí của hắn đồng thời làm hắn không tài nào thấy được kẻ hạ sát hắn.
“Mày không thể có tất cả;cái chết của hắn cũng đủ”.
Nicholai mỉm cười nâng khẩu M16 lên, tận hưởng khoảnh khắc đó. Cơn gió đêm mát lạnh làm xù tóc hắn cùng lúc hắn nhìn kĩ con mồi, để ý không chút thỏa mãn nỗi sợ trên nét mặt Mikhail, gương mặt khó hiểu. Bắn vào đầu ư? Không;có khả năng Mikhail đã bị nhiễm, Nicholai không muốn lỡ màn sống dậy. Hắn cũng có dư dả thời gian chứng kiến. Hắn hạ thấp súng xuống nhắm vào đầu gối Mikhail. Rất đau…nhưng hắn vẫn có thể dùng tay bắn loạn xạ vào màn đêm;Nicholai không muốn bị bắn trúng.
Mikhail đã nạp đạn xong và đang nhìn quanh như muốn quyết định nên đi đâu. Nicholai ngắm rồi bắn, một phát duy nhất, cực kỳ thỏa mãn với quyết định của hắn lúc viên chỉ huy lùi lại, ôm bụng và đột nhiên, Mikhail biến mất, theo góc tòa nhà vào trong màn đêm. Nicholai có thể nghe tiếng sỏi kêu răng rắc nhỏ dần.
Hắn rủa thầm, nghiến chặt răng. Hắn muốn thấy tên đó quằn quại, đau đớn vì vết thương có thể gây tử vong. Có vẻ phản ứng của Mikhail không tệ như hắn tưởng.
“Vậy ra hắn chọn chết trong bóng tối đâu đó thay vì nơi mình có thể thấy hắn. Điều đó thì nghĩa lí gì chứ? Chẳng qua mình không có gì làm để giết thời gian cả…”
“Vẫn không được. Mikhail bị thương nặng, còn Nicholai muốn nhìn hắn chết. Chỉ mất vài phút để tìm dấu máu rồi lần theo hắn – một đứa con nít cũng làm được”.
Nicholai cười ranh mãnh: “Và khi mình tìm thấy hắn, mình sẽ đề nghị giúp đỡ, đóng vai người đồng đội quan tâm – ai làm thế này với anh, Mikhail? Nào, để tôi giúp anh…”
Hắn mau chóng hướng về cầu thang, tưởng tượng khuôn mặt Mikhail khi nhận ra ai đã bắn hắn, khi hắn hiểu ra thất bại của hắn ở cương vị người chỉ huy và một người đàn ông.
Nicholai không biết hắn đã làm gì mà được hưởng hạnh phúc như thế;cho tới giờ, đây là đêm tuyệt nhất trong đời hắn.
Đường dây bị ngắt ngay khi cuộc nói chuyện của họ kết thúc, Carlos bước tới bàn ngồi xuống, nghĩ kĩ về những gì Trent đã nói. Nếu những gì ông ta nói là thật – Carlos tin vậy – thì Umbrella sẽ có rất nhiều thứ phải trả lời.
“Sao ông nói với tôi toàn bộ chuyện này?”, Carlos đã hỏi khi sắp kết thúc cuộc nói chuyện, đầu đang xoay mòng mọng. “Sao lại là tôi?”
“Vì tôi đã xem lí lịch của anh”, Trent trả lời. “Carlos Oliveira, lính đánh thuê – ngoại trừ cậu luônc chiến đấu vì lẽ phải, luôn luôn ở bên phe bị đàn áp và bị ngược đãi. Hai lần cậu liều mạng làm sát thủ, cả hai lần đều thành công – một lần là tên trùm ma túy bạo ngược tên còn lại là kẻ viết sách khiêu dâm trẻ em, nếu tôi nhớ đúng. Và cậu không bao giờ hại dân thường dù chỉ một lần. Umbrella có dính líu đến những cuộc tập huấn cực kỳ trái đạo đức, cậu Oliveira, và cậu chính xác là loại người nên hành động để dừng họ lại”.
Theo Trent, T-virus hay G-virus của Umbrella là hai loại khác nhau – được tạo ra và sử dụng lên những con quái vật tự tạo biến chúng thành vũ khí sống. Khi con người tiếp xúc với chúng, họ nhiễm căn bệnh ăn thịt người. Và Trent nói lãnh đạo U. B. C. S biết họ đang gửi người của họ tới đâu, có khả năng năng là cố ý làm vậy – tất cả trên danh nghĩa nghiên cứu.
“Tai mắt Umbrella ở khắp mọi nơi”, Trent từng nói vậy. “Như tôi đã nói trước đây, cẩn thận với ai mà cậu tin tưởng. Thật lòng thì không ai đáng tin cả. ”
Carlos đột ngột đứng dậy đi về phía bếp, lạc trong những suy nghĩ. Trent không chịu nói lí do ông ta phá hoại ngầm Umbrella, dù Carlos ngạc nhiên khi Trent cũng làm việc cho họ trên lãnh vực nào đó;điều đó giải thích tại sao ông ta bí mật vậy.
“Ông ta đang thận trọng, che giấu thân phận, nhưng sao ông ta biết nhiều thế? Những gì ông ta nói với mình…”
Sự thật rối tung, vài điều có vẻ hoàn toàn độc đoán – “trong phòng lạnh dưới nhà hàng có viên ngọc xanh lá giả. Trent nói nó có một cặp, nhưng không cho biết viên còn lại ở đâu hay tại sao chúng quan trọng đến vậy”.
“Hãy chắc là chúng có đủ bộ”, Trent nói thế - làm như Carlos sẽ tình cờ tìm được viên còn lại. “Khi cậu tìm được viên xanh dương, cậu sẽ có được lời giải thích. ”
Ngoài điều có vẻ vô dụng ngớ ngẩn đó, Trent cho anh biết Umbrella giữ hai trực thăng tại nhà máy xử lí nước thải bỏ hoang phía tây và phía bắc thành phố. Có lẽ đó là thông tin hữu ích nhất, Trent có nói tại bệnh viện thành phố có vaccine đang nghiên cứu, tuy nó vẫn chưa được chế tạo, có ít nhất một mẫu ở đó.
“Mặc dù có khả năng bệnh viện sẽ không còn ở đó lâu nữa”, câu nói đó khiến Carlos tự hỏi làm cách nào Trent biết được những thông tin đó.
“Chuyện gì sẽ xảy ra với nó? Và làm cách nào Trent biết được?”
Trent hình như nghĩ sự sinh tồn của Carlos là quan trọng;ông ta nghĩ Carlos sẽ là một phần quan trọng trong cuộc chiến chống lại Umbrella, nhưng Carlos vẫn không biết tại sao, hay có chắc mình muốn gia nhập không. Lúc này, anh chỉ muốn ra khỏi thành phố…dù vì lí do gì Trent đã quyết định cung cấp thông tin, Carlos cùng mừng vì sự giúp đỡ.
“Mặc dù thêm một chút nữa sẽ tốt hơn – như chìa khóa xe bọc thép chẳng hạn, hay thứ gì đó để chống lại bọn quái vật”.
Carlos đứng trong nhà bếp, nhìn xuống cái nắp dáng vẻ nặng nề, thứ hình như che lấp cầu thang dẫn xuống tầm hầm. Trent có nói có thể sẽ có nhiều vũ khí hơn ở tháp đồng hồ, không cách xa bệnh viện lắm;cái đó cộng thêm chút ít về trực thăng Umbrella ở phía bắc cái tháp với bệnh viện, chắc chắn sẽ có ích…
“Nhưng tại sao lại để mình tới đây nếu mình quan trọng như vậy chứ? Ông ta có thể ngăn mình lúc đang trên đường tới văn phòng mà”.
Rất nhiều điều không rõ ràng, Carlos sẵn sàng cược là Trent chưa nói hết mọi chuyện với anh. Không còn lựa chọn nào ngoài tin tưởng ông ta chút đỉnh, nhưng anh sẽ phải rất thận trọng khi dựa vào thông tin của Trent.
Carlos cúi xuống cạnh lối vào đường hầm, nắm tay cầm nắp kéo lên. Nó nặng nhưng anh có thể xoay sở được, ngả người ra sau dùng chân làm đòn bẩy. Trừ khi đầu bếp là tay lực sĩ, hẳn có cái xà beng quanh đây.
Cửa trước nhà hàng ở ra rồi đóng lại. Carlos nhẹ nhàng hẩy cái nắp sang một bên rồi quay lại, vẫn giữ tư thế cúi, nhắm khẩu M16 hướng lối vào phòng ăn. Anh không nghĩ bọn zombie cộng tác với nhau mà mở cửa, nhưng cũng không biết bọn quái vật làm được gì, hay ai khác có thể đi lang thang trên những con đường thành phố.
Những bước chân chậm rãi rón rén di chuyển tới nhà bếp. Carlos nín thở, nghĩ tới Trent, đột nhiên không biết liệu ông ta có sắp đặt…
…và điều cuối cùng anh trông chờ là thấy khẩu revolver. 357 ló ra ở góc, cầm bởi một phụ nữ trẻ quyến rũ với vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng, cô ta bước nhanh vào hạ thấp người xuống và chĩa vào Carlos trước khi anh kịp chớp mắt.
Trong một lúc, họ nhìn nhau chằm chằm, không ai cử động, Carlos đọc thấy trong mắt người phụ nữ cô ta sẽ không ngần ngại bắn anh nếu cần thiết. Dù cũng cảm thấy gần như vậy, anh quyết định tốt nhất là tự giới thiệu mình.
“Tôi tên Carlos”, anh nói bằng giọng đều đều. “Tôi không phải zombie. Thoải mái đi, huh?”
Cô gái nhìn anh thêm một lúc, chậm rãi gật đầu, hạ thấp khẩu revolver. Carlos bỏ tay khỏi cò khẩu súng rồi cũng làm vậy và họ đứng thẳng dậy, di chuyển thận trọng.
“Jill Valentine”, cô nói, hình như định nói gì thêm khi cửa sau nhà hàng bật tung, âm thanh rền vang từ yết hầu gần như tiếng thét làm tóc gáy Carlos dựng lên.
“Sstaarrsss!”, nó thét bất kì cái gì nữa, tiếng nó vang vọng khắp nhà hàng, từng bước chân khổng lồ nện thình thịch về phía họ, không ngừng nghỉ và kiên định.