Trở Lại Hoang Thôn

C21- Ngày cuối cùng

NGÀY CUỐI CÙNG



Sáng sớm

Tôi tin.

12 giờ đêm là thời khắc phán xét cuối cùng trong ngày.

Ai sẽ bị phán xét có tội?

Có lẽ là tất cả mọi người.

Đêm của Hoang thôn.

Giờ là 0 giờ 01 phút của ngày thứ 8 sau khi trở về, tôi nghe thấy linh hồn trong thân ác mình đang hỏi: “Tôi có còn không?”

Thân xác tôi đáp lại: “Đúng vậy, anh vẫn còn”.

Linh hồn nói: “Tôi không muốn rời xa anh”.

Thân xác nói: “Tôi cũng vậy”.

Linh hồn hỏi: “Phán xét kết thúc chưa?”

Thân xác đáp: “Phán xét vĩnh viễn không bao giờ kết thúc”.

Linh hồn hỏi tiếp: “Phán xét bắt đầu chưa?”

Thân xác đáp: “Phán xét bắt đầu từ lâu rồi”.

Linh hồn tiếp tục hỏi: “Ngày cuối cùng đã tới chưa?”

Thân xác đáp: “Không có ngày cuối cùng, bởi vì không có ngày đầu tiên”.

Vậy là, linh hồn nhặt lấy một bông hoa, đặt lên môi hôn, nói: “Cảm ơn bạn, tôi sẽ mãi mãi yêu bạn”.

Đêm nay không phải là ngày cuối cùng.

Đột nhiên, một cảm giác rất dị thường truyền lên ngón tay tôi, chiếc nhẫn ngọc dường như đã tự sống lại, từ từ trôi tuột trên ngón trỏ của tôi.

Hình như vùng đất Hoang thôn có sức mạnh mời gọi mãnh liệt với nó, khiến nó nhẹ nhàng rơi xuống mặt đất.

Giây phút này, vệt đỏ đun lóe sáng trong bóng tối, tôi chỉ cảm thấy ngón tay thoải mái hơn rất nhiều, rồi lập tức quỷ xuống nhặt chiếc nhẫn ngọc lên.

“Nó tự nhiên… tự nhiên rơi xuống rồi”. Xuân Vũ cũng hét lên vô cùng kinh ngạc, cô ấy không thể không chạm vào chiếc nhẫn, sua đó Xuân Vũ xúc động hỏi tôi: “Anh không sao chứ?”

Tôi nhẹ nhàng đáp lại cô ấy bằng giọng điệu tràn đầy sự biết ơn: “Yên tâm đi, linh hồn tôi vẫn còn đây”.

“Anh xem, mặt bên chiếc nhẫn là cái gì kia?”

Xuân Vũ soi đèn pin thẳng vào chiếc nhẫn ngọc, vừa vặn soi lên hoa văn mặt bên trong “Hoàn” – đây là những hoa văn vô cùng mảnh dẻ, giống như những khắc họa trên những đồ ngọc khác, và cũng chỉ có thể nhìn thấy khi ở trong bóng tối dùng đèn pin soi vào. Nếu như chiếc nhẫn ngọc đeo trên ngón tay người, thì chắc chắn không thể nhìn thấy những hoa văn này.

Dưới tấm bia đá “Trinh Liệt m Dương” trong thời khắc nửa đêm này, tôi nhìn chăm chú vào những hoa văn trong chiếc nhẫn ngọc, rồi lại ngẩng đầu nhìn lên bầu trời sao, không biết đó là chòm sao hay hệ sao gì, cảm giác giống như một “Hoàn” khổng lồ.

Có lẽ từ góc độ thần bí hơn mà nói, “Hoàn” tượng trưng cho hành tinh nào đó chưa được biết tới ngoài giải ngân hà, và tổ tiên của u Dương gia ở Hoang thôn, cũng chính là vương tộc sáng tạo ra văn minh Cổ Ngọc quốc Lương Chử, nghe nói chính họ là “người ngoài hành tinh” đầu tiên đổ bộ lên bờ biển này, tôi nghĩ có khả năng họ đến từ thế giới “Hoàn” đó, trải qua chẳng đường đăng đẵng gian khổ vượt hành tinh, từ hành tinh “Hoàn” xa xôi ngoài giải ngân hà đến với hoang nguyên của Trái Đất.

Dưới đây là những suy luận của bản thân tôi – người của hành tinh “Hoàn” vốn có nền văn minh cao độ, vốn dĩ đã sở hữu những sức mạnh nào đó mà người Trái Đất cảm thấy đó là những sức mạnh thần kỳ. Họ dựa vào sức mạnh này để sáng lập ra nền văn minh Cổ Ngọc quốc huy hoàng rực rỡ tại vùng Giang Nam sáu nghìn năm trước, còn mỏ ngọc giấu trong lòng đất của Trái Đất đã được họ chọn làm tải thể tin tức văn minh. Nhưng họ rút cuộc cũng chỉ là nạn dân rơi xuống và ở lại Trái Đất, hy vọng sớm muộn tới một ngày nào đó có thể trở về cố hương, vậy là họ chọn ra một miếng ngọc thạch thần kỳ nhất, chạm khắc thành hình dạng chiếc nhẫn rồi khắc bản đồ đường đi và số liệu hành tinh vào mặt bên trong chiếc nhẫn, hoặc là biểu thị vị trí của hành tinh “Hoàn” xa xôi. Thông qua chiếc nhẫn ngọc thần bí này, có thể chỉ đạo hậu duệ của “Hoàn” xuyên qua vũ trụ mênh mang, tìm thấy đường trở về nhà trong hàng tỷ năm ánh sáng.

Lẽ nào “Hoàn” là một loại bản đồ chòm sao? Bởi vậy nó mới ở trong văn minh Lương Chử cổ xưa, chiếm hữu địa vị cao thương và thần bí tối cao, cũng chính bởi vậy mà nhẫn ngọc mới đeo trên ngón tay của nữ vương thần thánh nhất, sau này lại trở thành thánh vật truyền đời của gia tộc. Trải qua thời gian hàng ngàn năm trôi đi, “Hoàn” giờ đây đang ở trong tay tôi và cũng trở về dưới chân tấm bia tiết hạnh của Hoang thôn.

Vậy là, tôi lại lần nữa giơ cao “Hoàn” lên, nhắm thẳng nó về phía bầu trời sao, trôi dạt trên trái đất hàng ngàn năm qua, nhà của nó rút cuộc ở đâu đây?

0 giờ 30 phút.

Giới hạn bảy ngày đã qua rồi, nữ vương phục sinh có còn sống không?

Tôi nắm chặt chiếc nhẫn ngọc trong lòng bàn tay, đi xuống một dốc núi bên ngoài thôn.

Xuân Vũ đi theo tôi hỏi: “Anh đi đâu?”

“Đưa nó về nhà”.

“Anh nói ai?”

Trong bóng đêm đặc quánh, tôi từ từ quay đầu lại: “Hoàn”.

Tôi cầm đèn pin tiến về phía trước, cẩn thận dò dẫm trên con đường nhỏ trên núi, Xuân Vũ cũng đành miễn cưỡng đi theo tôi lên núi.

Ánh sao rực rỡ trên bầu trời, nhưng đất trời Hoang thôn vẫn thê lương tiêu điều. Chúng tôi vất vả trèo lên dốc núi cao, gần như không còn nhìn thấy thôn xóm dưới chân núi, chỉ còn lại một vùng mênh mông tối đen khắp bốn bề, phía xa xa chính là đại dương vô bờ bến.

Lần theo ký ức nửa năm trước, tôi mên theo một dốc núi còn hoang vu hơn, chiếc nhẫn ngọc bị tôi nắm trong tay gần như nóng ran lên, gió đông buốt giá lướt qua bên tai, phát ra những âm thanh hun hút đáng sợ.

Thời khắc này tôi không còn sợ hãi bất cứ điều gì nữa, hình như cả Xuân Vũ cũng bị tác động bởi tôi, cô ấy bước nhanh hơn theo tôi.

Cuối cùng, tôi dò dẫm lên được một vách núi dựng đứng cheo leo, chỉ cần bước thêm một bước nữa là sẽ rơi xuống đáy vực thăm thẳm, biển đang gào thét thẳng đứng dưới chân vài chục mét, sóng biển trong đêm tối phát ra âm thanh khiến người ta khiếp sợ.

“Thật ra anh muốn làm gì thế?”

Xuân Vũ kéo chặt lấy vạt áo tôi, cô ấy lo lắng sợ tôi lỡ chân rơi xuống dưới.

Khóe miệng tôi mỉm cười: “Đừng sợ, tôi có thể tự lo được, cô cũng cần phải lo cho bản thân chứ”.

Sau đó, tôi đứng thẳng người, đối diện với biển đêm đen sì. Ngân hà “Hoàn” vĩnh hằng không bao giờ đổi thay đang lấp lánh trên đầu tôi, giống như gõ ra một nhóm mật mã trên bầu trời sao, mang theo cả vị mặn mòi của gió biển thổi vào mắt tôi, khiến cho nước mắt tôi như sắp tuôn trào.

Tôi hít một hơi thật sâu, giống như có cảm giác bay lên. Tôi giơ cao tay trái, chiếc nhẫn ngọc cuộn chặt trong lòng bàn tay tôi.

“Về nhà thôi, Hoàn”.

Sau khi khẽ thốt lên câu nói này, tôi dồn lực ném chiếc nhẫn ngọc trong lòng bàn tay về phía bên dưới vách đá.

Một ngôi sao băng lướt qua trên bầu trời tối đen.

Biển dưới vách núi lóe lên một ánh sao.

Vĩnh biệt nhé, Hoàn.

Biển hung tợn mở rộng lồng ngực khổng lồ, tức khắc nuốt chửng lấy chiếc nhẫn ngọc nhỏ bé.

Nó sẽ chìm sâu dưới đáy biển cạnh Hoang thôn hoặc là bị sóng cuốn xô đập vào bờ đá vỡ vụn, thịt nát xương tan hay là bị thủy triều đưa tới bến bờ nào đó cùa Thái Bình Dương?

Không một ai biết nơi trở về của nhẫn ngọc, nhưng tôi tin rằng hủy diệt chính là điều nó mong muốn.

Đúng vậy, tôi nhìn thấy chiếc nhẫn ngọc cười lạnh lùng trong nước biển, tôi nghe thấy nó hát trong bóng đêm…

Sinh ra bao nhiêu lần thì chết đi bấy nhiêu lần. Sinh một lần không dư, chết một lần không thiếu. Tử chính là diệt sinh, sinh chính là diệt tử.

Trong đêm tối, tôi không nhìn thấy rõ khuôn mặt của Xuân Vũ, chỉ cảm nhận được cô ấy tóm chặt lấy tôi, như bị cảnh tượng này làm cho sững sờ chết lặng. Nhưng chẳng mấy chốc Xuân Vũ đã trấn tĩnh trở lại, khẽ thì thầm bên tai tôi: “Anh làm đúng đấy”.

Khi tôi gật đầu ngước nhìn lên bầu trời sao, hình như có tiếng sáo du dương vọng lại từ rặng núi phía xa xa…

Tôi quay đầu lại hướng về phía dãy núi hoang vu, tất cả đều bị bao phủ bởi bức rèm đêm tối dày đặc, nhưng tôi tin rằng tiếng sáo đó tồn tại, tôi cũng biết rằng u hồn đó đang vẫy gọi kết cục này.

Nhất định nó đã nhìn thấy rồi.

Tiếng sáo tiếp tục bay bổng trong đêm tối Hoang thôn, nhưng vẫn chưa tới lúc tàn cuộc.

Quay đầu lại đối diện với biển lớn, lần nữa từ biệt chiếc nhẫn ngọc.

Sau đó, tôi và Xuân Vũ cẩn thận leo xuống vách núi, dùng đen pin soi đường, cảm giác dễ chịu hơn lúc leo lên rất nhiều.

1 giờ sáng.

Rút cuộc cũng đã về tới dưới chân tấm bia tiết hạnh, trong lòng lại cảm thấy mông lung và trống rỗng lạ thường, Xuân Vũ giục nói: “y, không tới nỗi ngủ lại ở Hoang thôn chứ?”

Đúng rồi, trưởng thôn không phải mời chúng tôi tới nghỉ đêm ở nhà ông sao? Quả nhiên, tôi nhìn thấy ánh đèn duy nhất còn sáng ở Hoang thôn, đó chắc là nhà của trưởng thôn rồi?

Chúng tôi vội vàng chạy vào Hoang thôn, lần theo ánh đèn trong đêm tối tìm thấy một khoảnh sân. Trưởng thôn quả nhiên đã để hè cửa cho chúng tôi. Sau khi vào sân, chúng tôi gõ cửa ngôi nhà nhỏ, trưởng thôn khoác áo đi ra dẫn chúng tôi vào nhà, ông xếp cho tôi ngủ ở căn phòng tầng một, vợ trưởng thôn dẫn Xuân Vũ lên căn phòng trên tầng hai.

Trong căn phòng thoang thoảng mùi đất của trưởng thôn, tôi vừa nằm xuống gối là liền ngủ thiếp đi, hình như vẫn còn tiếng sáo đang bay lượn trong mơ màng.

Ngủ ngon, các bạn…

Sáng

Tôi cứ ngỡ rằng mình sẽ mơ thấy “Hoàn”, nhưng tôi lại không mơ thấy cô ta (nó), thậm chí là cả Tiểu Chi mà tôi kỳ vọng cũng không xuất hiện.

Đây là đêm đầu tiên trong mấy tháng nay tôi không nằm mơ.

7 giờ sáng, tôi mơ mơ màng màng mở mắt, hình như ngửi thấy một mùi mằn mặn, đây là mùi thường ngửi thấy gần biển.

Lúc này tôi mới ý thức được mình đang ở Hoang thôn, nằm trong phòng nhà trưởng thôn, những gì xảy ra đêm qua lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi.

Đột nhiên, tôi lo lắng sờ lên tay trái mình, trên ngón trỏ chẳng còn gì cả, chiếc nhẫn ngọc đã thật sự rời xa tôi.

Sau khi ngủ dậy tôi phát hiện trưởng thôn đã chuẩn bị bữa sáng cho chúng tôi từ sớm, cháo nóng bốc hơi nghi ngút ăn kèm với dưa muối của người dân Hoang thôn khiến tôi húp lấy húp để sau cả đêm đói bụng.

Sắc mặt Xuân Vũ xem ra cũng khá hơn nhiều, hình như cô ấy đã thay đổi quan điểm về Hoang thôn.

Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi tạm biệt vợ chồng trưởng thôn, vội vàng rời khỏi ngôi làng cổ kính này, khi ra tới đầu thôn, tôi khẽ hỏi Xuân Vũ: “Đêm qua cô có nằm mơ không?”

Cô ấy sững sờ một lúc, sau đó lạnh lùng đáp: “Có mơ”.

Chắc là không phải mơ thấy “Hoàn" đâu nhỉ? Nhưng tôi vẫn thử hỏi thăm dò: “Cô mơ thấy ai?”

“Cao Huyền”.

Câu trả lời này nằm ngoài sự tưởng tượng của tôi, nhưng trong tình hình và tâm lý lúc này, tôi không biết nên nói gì, chỉ biết gật gật đầu.

Ra khỏi tấm bia đá tiết hạnh, phía đông chính là biển đen mênh mông. Bờ biển lúc sớm mai mịt mù trong sương khói, những dốc núi phía tây kín mít những ngôi mộ. Trong bóng tối đêm qua vốn không nhìn thấy bia mộ, giờ thì đã rõ nét dị thường, tiếng sáo lúc nửa đêm chắc cũng được vọng ra từ những ngôi mộ này.

Buổi sáng không có xe tới Hoang thôn, chúng tôi chỉ biết dựa vào đôi chân. Đi trên con đường núi trơ trọi không có lấy một ngọn cỏ, quay đầu nhìn lại Hoang thôn và ngón tay trỏ trống trơn, đột nhiên thấy buồn man mác, tận sâu đáy lòng còn buồn rầu hơn.

Tạm biệt Hoang thôn, tạm biệt “Hoàn”, tạm biệt Tiểu Chi.

Trong sương khói mịt mùng sớm mai, tôi và Xuân Vũ cực nhọc đi bộ hơn một tiếng đồng hồ, chân của chúng tôi giống như sắp gãy cả ra, cuối cùng thì cũng có thể leo lên một chiếc xe hướng tới thị trấn Tây Lãnh, lắc lư chở chúng tôi về thị trấn.

Cuối cùng cũng đã trở lại thị trấn Tây Lạnh, cái tên này thật nên thơ, chỉ cách Hoang thôn một dãy núi, mà giống như từ địa ngục trở lại nhân gian vậy.

Có độc giả đoán rằng cái tên “thị trấn Tây Lãnh” lấy từ trong tiểu thuyết Salem’s Lot(1) của Stephen King, trên thực tế tôi chưa từng đọc qua cuốn sách này (kể cả xem phim). “Tây Lãnh” vốn là một cái tên Trung Quốc hóa, nguồn gốc đến từ Chiết Giang, nếu mọi người có hứng thú thì có thể đoán xem.

Chiếc nhẫn ngọc đã bị tôi ném xuống biển. Bây giờ đối với tôi mà nói, nghi hoặc lớn nhất chính là A Hoàn (Lâm U) – giới hạn bảy ngày đã qua, cô ta còn sống hay đã chết? Tôi có thể tìm thấy tung tích của cô ta không nhỉ? Tất cả những điều này rút cuộc là vì cái gì?

Tôi bắt buộc phải nhanh chóng trở về Thượng Hải, chúng tôi đành phải ở lại thị trấn Tây Lãnh đợi đến buổi chiều.

Giờ là 9 giờ sáng, tôi và Xuân Vũ đi loanh quanh trong thị trấn, không ngờ vừa mới rẽ một cái trên đường là đã nhìn thấy một cảnh tượng hoàn toàn khác.

Đây là một con đường cổ được lát đá xanh, hai bên đều là những ngôi nhà cũ kĩ quét vôi với mái ngói màu xanh đen, có những quán trà, quán rượu, quán cơm cổ kính, chắc là dáng vẻ của thị trấn Tây Lạnh 100 năm trước.

Chúng tôi đi vào một quán trà cổ, gọi hai chén trà nóng. Vừa mới ngồi xuống chưa được bao lâu, người trong quán trà đã càng lúc càng đông, đa số đều là những ông lão bà lão tóc bạc phơ, họ ngồi vây quanh những chiếc bàn, hình như đang chờ đợi điều gì đó xuất hiện.

Bỗng nhiên, một giọng nữ lanh lảnh cất lên từ sau tấm rèm trong quán trà, tiếp đó lướt qua một bóng phụ nữ mặc cổ trang, đó là chiếc áo gấp nếp thêu hoa thường thấy trong ca kịch Côn Khúc(2), phía dưới là một chiếc váy màu xanh, trên tay còn tung cả ống tay áo thướt tha. Hóa ra là hát ca kịch địa phương, tuy mặt cô ấy hóa trang nhàn nhạt, tóc được bới thành kiểu hoa trâm, nhưng tôi vẫn có thể nhìn ra tuổi tác của cô ấy không còn trẻ, chắc tầm ngoài 30 tuổi.

Những ông lão bà lão bên cạnh bắt đầu vỗ tay, trong quán trà này chỉ có hai thanh niên – tôi và Xuân Vũ hơi cảm thấy hơi ngại.

Tiếp đó người phụ nữ bắt đầu hát, nhưng ngay câu đầu tiên đã khiến tôi ngây người ra giống như gà gỗ.

Tôi nghe thấy tiếng hát của A Hoàn (Lâm U).

Không sai, miệng cô ấy hát ra chính là giọng hát này, nói chính xác hơn là ca kịch của một địa phương nào đó, đằng sau còn có vài bô lão kéo đàn nhịn đệm cho cô ấy, tiếng sáo và tiếng tiêu cất lên du dương, tôn lên giai điệu bay ra từ miệng cô ấy.

Đây chính là tiếng hát trí mạng của A Hoàn (Lâm U). Ngay từ lần đầu tiên nghe thấy trong DV của Tô Thiên Bình, nó đã khắc sâu trong trí não tôi. Lần thứ hai nghe thấy tiếng hát này trong phòng Tô Thiên Bình, tôi gần như hồn xiêu phách lạc. Tôi tuyệt đối không thể nghe nhầm.

Trong đầu tôi vừa nhớ lại tiếng hát của A Hoàn (Lâm U), bên tai vừa văng vẳng ca kịch cổ xưa của thị trấn Tây Lãnh. Người phụ nữ vừa hát kịch vừa bước những bước khoan thai ngón tay hoa lan trang nhã uyển chuyển, và cả ánh mắt, cả sự biểu cảm đó cũng đậm vẻ cổ điển. Tuy nghe không hiểu ca từ của cô ấy, nhưng tôi tin rằng cô ấy đang hát về một truyền thuyết cổ xưa nào đó…

Màn ca kịch này biểu diễn khoảng một tiếng đồng hồ, người phụ nữ hát kịch liền vội vàng lui vào cánh gà, các bô lão trong quán trà dường như vẫn còn ngay ngất, có lẽ đây chính là thú giải trí quan trọng nhất của họ.

Tôi không thể không hỏi một ông lão ngồi bên cạnh: “Thưa bác, đây rút cuộc là kịch gì vậy ạ?”

“Tử dạ ca”.

Ông lão trả lời tôi bằng giọng Chiết Giang đặc sệt, thần thái lúc nói chuyện thật rạng rỡ, dường như vẫn đang đắm chìm trong ca từ cổ xưa.

Cái tên này đã từng quen thuộc với tôi, tôi cúi đầu lẩm bẩm nói: “Tử dạ ca – Đúng rồi, tôi còn nhớ hình như Lý Bạch cũng đã từng viết Tử dạ ca”.

“Thực ra ‘Tử dạ ca’ vốn không phải là thơ, mà là tình ca của một cô gái”.

Xuân Vũ đột nhiên nói thêm vào, ánh mắt có chút buồn bã.

“Sao cô lại biết?”

Cô ấy hình như đã thuộc lòng về nó: “’Tử dạ ca’ xuất hiện đầu tiên trong các Nhạc phủ thời Nam triều, cái tên này được đặt theo tên của cô gái Tử Dạ đời Tấn, giai điệu ca khúc rất bi ai, đến nước ma quỷ trong gia đình giàu sang quyền thế Vương Kha Phù thời Đông Tấn cũng phải cảm động mà hát câu ca này. Ngoài ra còn có ‘Tử dạ từ thời ca’… đều là một thể loại của ‘Giang Nam ngô thanh’ trong ‘Nam triều thanh thương khúc’. Không chỉ có Lý Bạch, Nam Đường Lý Hậu Chủ cũng đã lấy ‘Tử dạ ca’ làm tên ca khúc”.

Tôi thốt lên: “Oa, Xuân Vũ cô giỏi thật đấy”.

Đến cả ông lão của thị trấn Tây Lãnh cũng vô cùng ngạc nhiên trước Xuân Vũ, ông không ngừng gật đầu tán thưởng.

“Không có gì, gần đây tôi đang đọc ‘Nhạc phú thi tập’, nghe thấy ba chữ ‘Tử dạ ca’ này tự nhiên thấy rất quen. Đáng tiếc, bất luận là Ngô thanh ca, Tây Châu khúc hay là Giang Nam thần huyền khúc’ đi nữa, thì giai điệu của chúng đã thất truyền từ lâu rồi, chúng ta chỉ biết ca từ nhưng lại không biết hát thế nào”.

Tôi lập tức hỏi ông lão bên cạnh: “Bác ơi, bác có biết ‘Tử dạ ca’ ở đây bắt đầu có từ khi nào không ạ?”

“Tử dạ ca lâu đời lắm rồi, không một ai biết về niên đại khởi nguồn của nó, truyền thuyết kể lại rằng cô gái Tử Dạ đời Tấn chính là tổ sư của loại kịch này, còn có chuyên giai mệnh danh rằng nó chính là hóa thạch sống trong lịch sử ca kịch Trung Quốc”. Bô lão này rõ ràng cũng rất am hiểu văn hóa, thảo nào Chiết Giang vốn là nơi xuất thân của nhiều văn nhân, chỉ là khẩu âm của ông thực sự rất khó nghe, “Nhưng do tiếng địa phương của các vùng Chiết Giang khác nhau, rất nhiều thể loại kịch nhỏ chỉ có thể lan truyền trong địa phương, rời khỏi bản huyện là không ai nghe hiểu cả, bởi vậy ‘Tử dạ ca’ chỉ mãi mãi như cô con gái lớn lên trong khuê các thâm sâu, không ai biết đến”.

Xuân Vũ gật gật đầu nói: “Rõ ràng là di sản văn hóa rồi”.

“Sau Dân Quốc, ‘Tử dạ ca’ đã bị suy thoái, đến năm 1949 thì chỉ còn lại một lớp ca kịch, được chính phủ cải tạo thành đoàn kịch huyện. Mấy chục năm trước đoàn kịch xảy ra hỏa hoạn, đa số diễn viên đều bị chết cháy, ‘Tử dạ ca’ cơ bản cũng tuyệt chủng rồi”.

“Thế kịch bản nãy chúng cháu vừa xem thì sao ạ?”

“Do còn lại đĩa hát lưu lại từ những năm 60, sau đó có người dựa vào dĩa hát và ca từ trước đây học theo, đáng tiếc là đã không còn chính tông nữa”.

Nghe tới đây lòng tôi bỗng bừng sáng, có lẽ nút thắt cuối cùng cũng đã được tháo gỡ rồi. Tôi lập tức cảm ơn bô lão, kéo Xuân Vũ ra khỏi quán trà đông đúc.

Cô ấy khẽ càu nhàu: “Anh làm cái gì thế?”

Tôi không trả lời ngay, mà tìm tới một nơi yên tĩnh, móc điện thoại ra gọi vào số của Lâm U, nhưng tôi chỉ nghe thấy “Xin lỗi, thuê bao quý khách vừa gọi hiện đang tắt máy”.

Xuân Vũ nghi ngờ nhìn tôi: “Anh tìm Lâm U?”

Tôi “ừm” qua loa một tiếng.

“Không, anh không thể tìm thấy cô ta nữa đâu”.

Câu nói này đè nặng lên tim tôi, giống như mây đen đang bao trùm lấy thị trấn Tây Lãnh.

Đợi mãi tới trưa, chúng tôi ăn bữa trưa trong thị trấn rồi lên xe khách đường dài trở về Thượng Hải.

Vẫn là ngồi phía sau xe, Xuân Vũ mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại, tựa vào cửa sổ ngủ thiếp đi. Còn tôi thì lại lấy cuốn "Hủy diệt mộng cảnh" ra, tên tác giả Hứa Tử Tâm trên bìa sách đập vào mắt tôi.

Xe khách từ từ rời khỏi thị trấn Tây Lãnh, núi non xanh mướt hai bên đường dần dần lùi lại phía sau, sự trống trải trong lòng cũng càng lúc càng mãnh liệt.

Hành trình dài miên man lại bắt đầu rồi…

Tạm biệt, Tây Lãnh.

1.Salem’s Lot: Tiểu thuyết kinh dị nổi tiếng về ma cà rồng của nhà văn Mỹ - Stephen King, sau đó đã được dựng thành phim – ND.

2.Kịch côn khúc: ra đời từ thế kỷ 14 tại Côn Sơn, Tô Châu, Trung Quốc là một trong những loại hình cổ nhất của nghệ thuật ca kịch Trung Quốc – ND.

Đêm

7 tiếng đồng hồ sau.

Bên ngoài cửa sổ xe lại là bầu trời đêm rực rỡ đèn hoa xanh đỏ của Thượng Hải, núi non xanh mướt của thị trấn Tây Lãnh và biển của Hoang thôn dường như đã trở thành kí ức của một thời khắc khác, trước mắt chỉ có con đường Hằng Phong rộng thênh thang, và còn cả những tòa nhà cao to sừng sững phía xa xa.

Ra khỏi bến xe khách đường dài, tôi không ngừng co duỗi chân tay. Xuân Vũ ngủ trên xe cả buổi chiều, tinh thần hình như có tốt hơn đôi chút.

Chúng tôi ăn vội chút đồ ngoài bến xe, Thượng Hải trong màn đêm thôi thúc tôi nhanh chóng hành động, Xuân Vũ chán nản nói: “Thế rốt cuộc bây giờ anh muốn thế nào?”

“Chúng ta đi tìm Lâm U!”

Không đợi Xuân Vũ trả lời tôi đã gọi một chiếc tắc xi, đưa cô ấy tới căn hộ mà Lâm U thuê.

8 giờ tối, chúng tôi đã tới khu dân cư này, một lần nữa trở lại căn hộ có vẽ trên cánh cửa.

Xuân Vũ chưa từng tới đây, cô ấy cẩn thận quan sát mọi thứ xung quanh rồi thì thào nói: “Lâm U ở trong đó sao?”

Tôi vẫn không mở lời mà nhắc chậu hoa trước cửa, quả nhiên phát hiện ra khóa nhà dưới dáy chậu.

Sau khi dùng chìa khóa mở cửa thì thấy mọi thứ trong căn hộ đều chẳng có gì thay đổi, vẫn như lần trước tôi tới đây. Một bên là căn phòng màu đen của Lâm U, một bên là căn phòng mày trắng của A Hoàn – khi cô ta là Lâm U, cô ta sẽ ở trong căn phòng bên trái, khi cô ta là A Hoàn, cô ta sẽ ở trong căn phòng bên phải, giống như hai người bạn cùng thuê chung một nhà, chỉ có đều họ không bao giờ đồng thời xuất hiện, bởi vậy không biết gì về nhau.

Cô ta còn có thể ở đâu vậy?

Tôi cúi đầu đi đi lại lại mấy bước, rồi kéo Xuân Vũ ra khỏi căn hộ này, xuống dưới lầu gọi một chiếc tắc xi đi về hướng con phố nhỏ kín mít những quán bar.

Trên đường đi Xuân Vũ không ngừng hỏi tôi đang nghĩ gì trong lòng, nhưng vẻ mặt của tôi trầm tư giống như đêm đen vậy, không nói lấy một lời.

20 phút sau, chúng tôi tới quán bar có cửa kính sát đất, Xuân Vũ có vẻ không hề thích những chỗ như thế này, cô ấy không muốn vào nên đã đứng ngoài cửa đợi tôi.

Tôi lao như bay vào trong, tách những gã nửa say nửa tỉnh ra và tìm thấy trưởng ca mà tôi quen, cậu ta liền thu ngay lại nụ cười rẻ tiền, vội vàng hỏi: “Ê, tối hôm trước anh đưa Lâm U đi đâu vậy?”

Đúng rồi, tôi nhớ lại cái đêm mà Lâm U bỗng nhiên ngất xỉu trong quán bar khiến ở đây náo loạn hết cả lên, sau đó tôi đưa cô ta tới bệnh viện.

Tôi có chút bối rối trả lời: “Cô ấy không quay lại sao?”

“Không, từ sau cái đêm mà anh đưa cô ấy đi, cô ấy không xuất hiện thêm lần nào nữa, gọi điện thoại cũng toàn tắt máy”.

“ô, cảm ơn cậu”.

Tôi không thể nói thêm điều gì nữa, lập tức chui ra ngoài. Nhưng tay trưởng ca hình như vẫn chưa muốn buông tha nên đã đuổi theo tôi ra tới tận ngoài cửa.

Không ổn – Tôi lao ra khỏi quán bar, kéo Xuân Vũ chạy về phía bên kia đường, sau lưng vang lên tiếng gào thét chửi rủa của tay trưởng ca.

Xuân Vũ vẫn chưa hiểu đầu cua tay nheo gì cả nên hỏi: “Người đó định làm gì thế?”

“Hắn say rồi!”

Nói xong chúng tôi chạy vào một con ngõ nhỏ hẹp, con ngõ tối thui khiến Xuân Vũ trở nên lo lắng: “Anh muốn đi đâu?”

Trong bóng tối, tôi lạnh lùng trả lời: “Địa ngục!”

Xuyên qua con ngõ dài ngoằng thì chính là dãy phố vắng hoe lạnh lẽo đó, ki ốt bưu thiếp cá tính ở ngay trước mặt.

Xuân Vũ hiểu ra rồi: “Đây chính là nơi phát hiện ra u hồn bưu thiếp?”

“Đúng”.

Tôi nhìn ngó xung quanh, gió lạnh từ góc phố cuộn lại khiến người ta bất giác rùng mình. Tôi chầm chậm sang đường, mở cửa ki ốt bưu thiếp.

U hồn không có đây.

Ki ốt trống hươ trống hoắc, đến cả bưu thiếp trong kỳ vọng cũng không thấy đâu.

Tôi thất vọng ra khỏi ki ốt, quay đầu hướng về bầu trời đêm thành phố, mơ màng cảm thấy có gì đó đang nhảy múa.

“Cô ta rút cuộc ở đâu?”

Xuân Vũ đã bị tôi dày vò đủ rồi, cô ấy cười đau khổ nói: “Anh nhất định phải tìm thấy cô ấy sao?”

“Không vì lý do nào cả!”

(Nói ra tên một cuốn sách ở đây, thực sự là có chút nực cười, đừng mắng tôi nhé).

“Tìm một cô gái giữa Thượng Hải rộng lớn thế này, chẳng khác nào mò kim đáy bể”.

Đúng vậy, tôi nhớ tới kết thúc của một cuốn tiểu thuyết mình viết – Cô ấy giữa biển người mênh mông.

Dưới ánh đèn đường lạnh lẽo âm u, Xuân Vũ lắc đầu nói: “Xin lỗi, tôi đã quá mệt mỏi rồi, bây giờ tôi phải về trường đây!”

Tôi thở dài nói: “Về đi”.

Nhưng bỗng chốc hình như có gì đó đập lên tim tôi – về trường?

back top